Giáo trình Tài chính công - Chương 5: Bảo hiểm

1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm
Ý tưởng tìm cách chống đỡ thiên tai, tai họa đã xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ xưa của nền
văn minh nhân loại. Việc dự trữ thức ăn có được từ săn bắn và hái lượm thời nguyên thuỷ
có thể coi là những hành động có ý thức đầu tiên của con người nhằm bảo vệ mình trước
những rủi ro, bất trắc. Bắt nguồn từ thực tế chống chọi với nhiều loại rủi ro trong cuộc đấu
tranh sinh tồn, ý tưởng bù đắp những thiệt hại lớn mà một số thành viên của cộng đồng
phải gánh chịu nhờ vào sự đóng góp từ số đông các thành viên trong cộng đồng đã gieo
mầm cho sự ra đời của bảo hiểm và cũng chính những nhu cầu của con người đã khiến các
loại hình bảo hiểm phát triển rất mạnh và đang vươn đến đỉnh cao trong kinh tế thị trường
hiện đại.
2. Khái niệm và mục đích của bảo hiểm
Chúng ta có thể hiểu: Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình
thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố.
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng
đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng
góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành
viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra.
Mục đích của bảo hiểm là việc chuyển giao rủi ro tài chính từ người mua bảo hiểm cho
công ty bảo hiểm. Phân tích sâu hơn, do công ty bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm từ
số đông thông qua phí bảo hiểm nên mục đích của nó là hoán đổi (chuyển giao) từng phần
hoặc toàn bộ rủi ro sang số đông. 
pdf 22 trang hoanghoa 08/11/2022 2960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính công - Chương 5: Bảo hiểm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tai_chinh_cong_chuong_5_bao_hiem.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tài chính công - Chương 5: Bảo hiểm

  1. III. Phân loại bảo hiểm Có nhiều cách phân lợi khác nhau căn cứ vào đối tượng bảo hiểm (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người), căn cứ vào tính chất pháp lý (bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện), căn cứ vào mục tiêu lợi nhuận (Bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ và bảo hiểm không vì mục tiêu lợi nhuận). 1. Bảo hiểm phi nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa người tham gia bảo hiểm với người bảo hiểm mà trong đó, người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các sự kiện đã định trước xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Ví dụ các rủi ro từ môi trường thiên nhiên (động đất, bão ), các rủi ro từ môi trường xã hội (hỏa hoạn, tai nạn ). Một số loại bảo hiểm phi nhân thọ như: . Bảo hiểm tài sản: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các tài sản và những lợi ích liên quan. Có nhiều loại bảo hiểm tài sản thông dụng như là: bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong nước; bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới; bảo hiểm công trình xây dựng, lắp đặt; bảo hiểm máy móc thiết bị điện tử; bảo hiểm tàu thuyền . Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có mục tiêu lợi nhuận: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm phát sinh theo quy định về trách nhiệm dân sự của pháp luật. Có nhiều loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu; bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động; bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm; bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong xây dựng, lắp đặt Những loại bảo hiểm này có mục tiêu lợi nhuận. 2. Bảo hiểm nhân thọ Là loại bảo hiểm bao hàm những cam kết mà sự thực hiện những cam kết đó phụ thuộc vào tuổi thọ của con người. của doanh nghiệp bảo hiểm. Có hai loại cam kết chủ yếu trong bảo
  2. hiểm nhân thọ, đó là cam kết đóng phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc trả trợ cấp định kỳ của doanh nghiệp bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống, tử vong theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ: bảo hiểm sinh kỳ: theo loại hình bảo hiểm này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định. Bảo hiểm tử kỳ: theo loại hình bảo hiểm này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả tiền cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong một thời hạn nhất định. 2. Các loại bảo hiểm không vì mục tiêu lợi nhuận Bảo hiểm xã hội Là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động. Tại Việt Nam. BHXH bao gồm: BHXH và BH thất nghiệp. Bảo hiểm xã hội được chia làm bảo hiểm XH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia, bao gồm các chế độ:ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội, bao gồm các chế độ : hưu trí; tử tuất. Bảo hiểm thất nghiệp là loại bảo hiểm trợ cấp tài chính cho người lao động khi họ bị thất nghiệp hoặc hỗ trợ học nghề hay hỗ trợ tìm việc làm khi thất nghiệp Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản. Các chủ thể tham gia vào quá trình bảo hiểm này bao gồm: người được bảo hiểm, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
  3. IV. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm 1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Đặc điểm cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp với các rủi ro được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm là những sự cố dự tính, nếu xảy ra gây thiệt hại hoặc ảnh hưởng tới đối tượng bảo hiểm sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm. Những rủi ro được bảo hiểm thường được nêu trong phạm vị bảo hiểm của quy tắc bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo đó thỏa thuận nếu những rủi ro đó xảy ra người tham gia bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm. Người tham gia bảo hiểm là người có thân thế, tài sản trách nhiệm dân sự cần được bảo hiểm hoặc là người có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Để được hưởng quyền lợi bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm phải có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ nộp theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ đó, người tham gia bảo hiểm sẽ được đền bụ khi sự kiển bảo hiểm diễn ra. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan, do các bên dự liệu trong hoạt động bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra trên thực tế thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người có quyền hưởng quyền lợi bảo hiểm từ quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm là quỹ được hình thành từ phí bảo hiểm được dùng để bồi thường, bù đắp cho những trường hợp thuộc diện được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Chính nhờ phương thức thu phí bảo hiểm của số đông và chỉ chi trả khi có sự cố bảo hiểm xảy ra trên thực tế mà tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp bảo hiểm.
  4. Hoạt động kinh doanh của bảo hiểm phải căn cứ vào các nguyên tắc của kinh doanh bảo hiểm và căn cứ vào quy định của pháp luật. Các nguyên tắc kinh doanh bảo hiểm bao gồm: . Nguyên tắc số đông và thống kê rủi ro; . Nguyên tắc phân tán, phân chia rủi ro; . Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn: Chỉ bảo hiểm một rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra. . Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối. Cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều phải trung thực trong tất cả các vấn đề. . Nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi. . Nguyên tắc thế quyền: Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba trách nhiệm bồi thường cho mình. 2. Đại lý và môi giới bảo hiểm 2.1. Đại lý bảo hiểm: Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Đại lý bảo hiểm có thể được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền tiến hành các hoạt động sau đây. . Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; . Thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm; . Thu phí bảo hiểm;
  5. . Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; . Thực hiện các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Như vậy đại lý bảo hiểm hoạt động nhân danh doanh nghiệp bảo hiểm và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng chỉ được phép làm những công việc mà doanh nghiệp bảo hiểm cho phép đã được nêu trong hợp đồng đại lý bảo hiểm. Đại lý BH không hưởng lương mà được hưởng phần trăm hoa hồng trên phí BH thu được từ KH cũng như mọi quy chế tiền thưởng tùy mỗi công ty BH dưới sự kiểm soát của Bộ tài chính 2.2. Môi giới bảo hiểm Môi giới Bảo hiểm là một tổ chức trung gian BH tư vấn cho khách hàng của mình (người tham gia BH) và thu xếp BH cho khách hàng đó. Môi giới BH là người trung gian giữa công ty BH với khách hàng, đại diện cho quyền lợi của khách hàng và có nhiệm vụ tham mưu, tư vấn, thu xếp các hợp đồng BH cho họ. Môi giới BH được khách hàng ủy quyền và hành động vì quyền lợi khách hàng. Theo quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với các công ty môi giới thường nhanh chóng và dễ thành công hơn so với đàm phán trực tiếp với khách hàng. Sự khác nhau giữa hoạt động của đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm: . Về địa vị pháp lý: Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm. Trong khi doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là các tổ chức kinh doanh độc lập chuyên kinh doanh trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm . Về trách nhiệm: Đại lý là cá nhân (tổ chức) được công ty bảo hiểm uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ nhất định. Công ty bảo hiểm phải chịu trách nhiệm cuối cùng về các hành vi của đại lý đối với khách hàng. Trong khi đó, doanh nghiệp môi giới là tổ chức kinh doanh độc lập, thay mặt khách hàng giao dịch với các công ty bảo hiểm để lựa chọn sản phẩm, dịch vụ phù hợp nhất cho khách hàng. Công ty môi giới bảo hiểm tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trước pháp luật.
  6. Chính vì vậy, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm còn phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động môi giới bảo hiểm trong khi đại lý thì không phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp 3. Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm Bồi thường bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc chi trả tiền bảo hiểm khi sự kiện rủi ro sảy ra theo hợp đồng đã ký kết. Việc bồi thường nằm trong giới hạn bồi thường, là số tiền tối đa mà công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra thuộc những rủi ro được bảo hiểm. Việc bồi thường và chi trả có liên quan mật thiết với công tác giám định thiệt hại. Việc giám định sẽ chỉ ra nguyên nhân gây ra sự kiện bảo hiểm, là do lỗi khách quan hay chủ quan, mức độ thiệt hại bao nhiêu và nằm trong phạm vi nào của hợp đồng. Căn cứ vào mức giám định này và hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm quyết định mức chi trả phù hợp hoặc không thực hiện việc chi trả. Liên quan tới bồi thường bảo hiểm còn có khái niệm “mức miễn thường”. Phần lớn các đơn bảo hiểm đều có mức miễn thường, mức miễn thường là số tiền mà tổn thất trong khoản đó không được bồi thường. Nói một cách khác, mức miễn thường chính là sự chia sẻ trách nhiệm giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm. Ngoài ra, khi nhận được khiếu nại bồi thường, công ty bảo hiểm sẽ tốn một khoản chi phí về nhân sự, giấy tờ, thẩm định và ngược lại người được bảo hiểm cũng phải dành thời gian để chuẩn bị khiếu nại, thậm chí có trường hợp phải ra tòa làm chứng. Như vậy, việc định ra mức miễn thường cũng là cách để giảm tải những chi phí và thời gian giải quyết các vụ bồi thường có giá trị nhỏ. 4. Doanh thu, chi phí doanh nghiệp bảo hiểm 4.1. Doanh thu Doanh thu của các công ty bảo hiểm đến từ hai nguồn chính: Doanh thu thu từ hoạt động kinh doanh và từ hoạt động đầu tư tài chính.
  7. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải thu phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ: . Số tiền phải thu phát sinh trong kỳ bao gồm: - Thu phí bảo hiểm gốc; - Thu phí nhận tái bảo hiểm; - Thu hoa hồng nhượng tái bảo hiểm; - Thu phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%; - Thu phí giám định tổn thất không kể giám định hộ giữa các đơn vị thành viên hạch toán nội bộ trong cùng một doanh nghiệp bảo hiểm hạch toán độc lập. . Các khoản phải chi để giảm thu phát sinh trong kỳ bao gồm: - Hoàn phí bảo hiểm; - Giảm phí bảo hiểm; - Phí nhượng tái bảo hiểm; - Hoàn phí nhận tái bảo hiểm; - Giảm phí nhận tái bảo hiểm; - Hoàn hoa hồng nhượng tái bảo hiểm; - Giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm. Doanh thu hoạt động tài chính bao gồm: . Thu hoạt động đầu tư: mua trái phiếu, cổ phiếu, kinh doanh bất động sản . Thu từ hoạt động mua bán chứng khoán; . Thu lãi trên số tiền ký quỹ; . Thu cho thuê tài sản;
  8. 4.2. Chi phí Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm hai khoản chính là chi phí từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm và chi phí từ hoạt động đầu tư. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phát sinh trong kỳ: . Số tiền phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ bao gồm: - Bồi thường bảo hiểm gốc đối với bảo hiểm phi nhân thọ; trả tiền bảo hiểm đối với bảo hiểm nhân thọ; - Chi bồi thường nhận tái bảo hiểm; - Trích lập dự phòng nghiệp vụ; - Chi hoa hồng bảo hiểm; - Chi giám định tổn thất; - Chi phí về dịch vụ đại lý bao gồm giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; - Chi xử lý hàng bồi thường 100%; - Chi quản lý đại lý bảo hiểm; - Chi đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; - Chi đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm; - Các khoản chi, trích khác theo quy định của pháp luật. Chi phí hoạt động tài chính: . Chi phí hoạt động đầu tư . Thu nhập đầu tư phải trả cho bên mua bảo hiểm theo cam kết tại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ; . Chi phí cho thuê tài sản;
  9. . Chi thủ tục phí ngân hàng, trả lãi tiền vay. 5. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 5.1. Nguồn hình thành vốn đầu tư Do đặc thù của hoạt động bảo hiểm là có một khoảng cách thời gian từ thời điểm nhận phí bảo hiểm đến thời điểm chi trả bảo hiểm, ví dụ phí bảo hiểm nộp vào tháng 1 song có thể cho tới tháng 12 doanh nghiệp mới phải thực hiện chi trả bồi thường, do đó doanh nghiệp bảo hiểm có số lượng tiền nhàn rỗi khá lớn có thể tuỳ ý sử dụng. Trên thực tế công ty bảo hiểm có nhiều khoản phí bảo hiểm tích tụ từ những người đóng bảo hiểm trong một thời gian dài, khoản tiền này sẽ được dùng để đầu tư. Bên cạnh đó do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải chi trả những khoản tiền khi xảy ra rủi ro, nên để có thể đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập các quỹ dự phòng kỹ thuật từ nguồn phí bảo hiểm thu được. Điều 96 Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam quy định: "dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết". Trên bảng cân đối kế toán, các quỹ dự phòng này được thể hiện là khoản mục nợ phải trả của doanh nghiệp. Cũng giống như trường hợp của các ngân hàng thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm không thể biết trước một cách chính xác khi nào sẽ phải chi trả tiền bảo hiểm nhưng có thể dự đoán được tỷ lệ dự trữ cần thiết vừa đủ để đảm bảo khả năng thanh toán mà không làm lãng phí nguồn vốn đầu tư. Nói chung, nguồn vốn nhàn rỗi được dùng để đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ tự nguyện, lãi chưa sử dụng từ năm trước, các quỹ để đầu tư hình thành tự lợi nhuận để lại (quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển, quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ trợ cấp mất việc ), nguồn vốn nhàn rỗi từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp. 5.2. Đặc điểm hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm . DN BH có ưu thế về nguồn vốn nhàn rỗi, do đó quy mô đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ rất lớn.
  10. . Việc đầu tư phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu chi trả hợp đồng bảo hiểm . Yêu cầu an toàn luôn được đặt lên hàng đầu đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 5.3. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, những cách phân loại thường được doanh nghiệp sử dụng là: Theo mục đích đầu tư (đầu tư nhằm mục đích sinh lời; đầu tư nhằm mục đích bảo toàn vốn, phân tán rủi ro; đầu tư nhằm đảm bảo tính thanh khoản), theo thời hạn đầu tư, theo đối tượng đầu tư Ngoài ra, do hoạt động đầu tư cũng có thể là công cụ của doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động nắm quyền kiểm soát các tổ chức khác nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoặc đầu tư sinh lời . Căn cứ theo mục đích đầu tư. Tuỳ theo tính chất của nguồn hình thành vốn đầu tư và chiến lược đầu tư mà doanh nghiệp bảo hiểm có mục đích đầu tư tập trung vào loại hình đầu tư nào. Đối với các khoản đầu tư bảo đảm tính thanh khoản, khả năng sinh lời sẽ thấp hơn, chủ yếu là gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hoặc mua chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu kho bạc. Đầu tư nhằm sinh lời là hoạt động mang lại lợi nhuận chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm, có kỳ hạn hơn và mức độ rủi ro cao hơn. Ngoài ra, để phân tán rủi ro, các doanh nghiệp phải tiến hành đa dạng hoá danh mục đầu tư, bảo toàn vốn chứ không tập trung vào một loại hình đầu tư cụ thể. Căn cứ theo phương thức đầu tư gồm có đầu tư trực tiếp, gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là doanh nghiệp bỏ vốn trực tiếp vào dự án và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động kinh doanh của dự án đó. Phương thức đầu tư này đòi hỏi sự am hiểu về lĩnh vực kinh doanh của dự án, kinh nghiệm về quản trị kinh doanh, nhưng thường đem lại sự chủ động và lợi nhuận cao cho phía nhà đầu tư. Thông thường doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cử đại diện của mình chịu trách nhiệm trực tiếp tham gia quản lý, giám sát và thực thi những yêu cầu của doanh nghiệp đối với dự án đó. Đối với hoạt động đầu tư gián tiếp, bộ phận đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm không phải trực tiếp thực hiện quản lý hoạt động của dự án đầu tư
  11. mà chỉ cung cấp vốn cho dự án thông qua các hình thức cho vay, mua các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu Nếu căn cứ vào thời hạn đầu tư bao gồm đầu tư ngắn hạn, dài hạn. Các khoản đầu tư có thời hạn trên 1 năm là các dự án đầu tư dài hạn. Thông thường các khoản đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao nhưng tỷ lệ thu nhập thấp, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thường sử dụng đầu tư ngắn hạn làm khoản mục dự trữ cho các nhu cầu chi trả khi cần thiết. Còn đối với loại hình bảo hiểm nhân thọ, do có thể xác định được nhu cầu chi trả đối với từng thời kỳ nên nhu cầu về các loại đầu tư có có khả năng thanh khoản cao thấp hơn, họ thường tập trung vào đầu tư dài hạn để có thể nâng cao được tỷ lệ thu nhập. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể đầu tư rất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các hình thức cho vay "qua đêm" đối với các tổ chức tài chính khác nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của họ, hình thức đầu tư này cũng đem lại lợi nhuận cao mà rủi ro lại không lớn. Nếu căn cứ theo tài sản đầu tư, bao gồm: chứng khoán, cho vay, góp vốn, gửi tiền, bất dộng sản Theo cách phân loại này, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chuyên môn hoá bộ phận đầu tư thành các bộ phận nhỏ nhằm quản lý từng loại tài sản có tính chất giống nhau; chẳng hạn như bộ phận chuyên đầu tư các loại chứng khoán, bộ hận thẩm định dự án để cho vay, góp vốn; bộ phận đầu tư bất động sản Ngoài ra nhà nước cũng quy định tỷ lệ vốn nhàn rỗi được phép đầu tư vào mỗi danh mục đầu tư nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp bảo hiểm luôn duy trì được khả năng thanh toán. Phân tích một số loại hình đầu tư tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm như sau: . Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng: đây là loại hình đầu tư ngắn hạn, dễ quản lý, ít rủi ro, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính toán tương đối chính xác các khoản thu nhập trong tương lai, nếu lựa chọn các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh, uy tín thì rủi ro là tương đối thấp. Tuy nhiên các khoản tiền gửi này cũng chịu những rủi ro về lạm phát và lãi suất, hơn nữa lãi suất của các khoản tiền gửi rất thấp nên đây không phải là loại hình đầu tư có hiệu quả đối với doanh nghiệp bảo hiểm