Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu

Nội dung
• Xây dựng các mô hình tổng cung và tổng cầu
trong ngắn hạn và dài hạn dưới dạng phương
trình và đồ thị
• Phân tích và đánh giá được các cú sốc của tổng
cung và tổng cẩu trong ngắn hạn và dài hạn


 

pdf 22 trang hoanghoa 07/11/2022 8480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_6_mo_hinh_tong_cung_va_tong_cau_7499_165_445069.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu

  1. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu Xét một tình huống trong đó những người sản xuất không thể phân biệt một cách hoàn hảo giữa một cú sốc về giá cả cho các sản phẩm của họ (làm thay đổi giá tương đối và do đó họ phải thay đổi mức sản xuất) và cú sốc về mức giá chung (không làm thay đổi giá tương đối và do đó phản ứng tốt nhất là không thay đổi mức sản xuất). Giả sử một cú s ốc nào đó làm tăng giá, phản ứng tốt nhất của người sản xuất có lẽ nằm đâu đó giữa hai khả năng trên. Quyết định chính xác khối lượng sản phẩm cần sản xuất thêm phụ thuộc vào đánh giá của anh ta về cơ hội kiếm lợi nhuận từ mỗi cú sốc. Nói một cách chính xác hơn, mô hình giả thiết rằng những người sản xuất có mhột dự kiến n ất định về mức giá chung (Pe). Sau đó, họ sẽ quan sát giá cả mà họ có thể bán sản phẩm của mình. Nếu mức giá đó cao bất thường, họ có thể kết luận rằng giá cả của mọi hàng hóa đã tăng (có thể do tăng cung tiền). Trong trường hợp này, họ sẽ điều chỉnh dự đoán của họ về mức giá chung và không thay đổi mức sản xuất của họ. Trái lại, họ có thể nghĩ rằng cầu về sản phẩm của họ đã tăng, và họ sẽ sản xuất nhiều hơn. Bất cứ sự khác nhau nào giữa giá cả thực tế và dự kiến đều có thể do một hoặc cả hai khả năng này. Trong những trường hợp đó, phản ứng tốt nhất của các doanh nghiệp với sự gia tăng giá cả không được dự kiế n trước là tăng sản lượng. Tóm lại, mô hình thông tin không hoàn hảo khẳng định rằng khi giá cả cao hơn mức dự kiến, các nhà cung cấp tăng sản lượng của họ. Do vậy, mô hình có đường tổng cung dưới dạng mà chúng ta đã biết: YY*(PP)=+α−e Sản lượng lệch khỏi mức tự nhiên khi mức giá lệch khỏi mức giá dự kiến. o Mô hình giá cả cứng nhắc Cuối cùng, chúng ta trở lại với mô hình giá cả cứng nhắc. Đây là một lý thuyết tương đối phức tạp hơn so với ba mô hình đã trình bày ở trên. Mô hình giá cả cứng nhắc đưa ra một quan niệm rất khác về hành vi của các doanh nghiệp. Cho đến nay chúng ta luôn nghĩ rằng các doanh nghiệp lựa chọn mức sản xuất mà họ có thể bán được tại mức giá được coi là cho trước. Tuy nhiên, trong thực tế các doanh nghiệp th ường định giá bán cho các sản phẩm của mình. Để phân tích tình huống này một cách chính xác, chúng ta cần sử dụng mô hình cạnh tranh không hoàn hảo, trong đó các doanh nghiệp có một sức mạnh thị trường nhất định. Xét quyết định của một doanh nghiệp. Giá P mà Mô hình giá cả cứng nhắc doanh nghiệp muốn quy định phụ thuộc vào hai biến số: ƒ Mức giá chung P: Một sự gia tăng trong mức giá chung làm giá cả của các đối thủ cạnh tranh và giá cả các yếu tố đầu vào tăng lên và do đó, doanh nghiệp cũng cần tăng giá cho các sản phẩm của mình. ƒ Tổng thu nhập Y: Mức thu nhập cao làm tăng cầu về sản phẩm của doanh nghiệp. Vì chi phí cận biên tăng khi mức sản xuất cao hơn, nên cầu càng lớn, thì doanh nghiệp càng muốn định giá cao hơn. 161
  2. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu Chúng ta có thể viết giá mà doanh nghiệp muốn quy định như sau: PP=+β−e (YY*) Trong đó, β là tham số lớn hơn không. Phương trình này chỉ ra giá mong muốn P phụ thuộc vào mức giá chung và chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng tự nhiên. Bây giờ, giả thiết rằng có hai loại doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tỷ trọng (1 – s) có giá cả linh hoạt và điều chỉnh giá cả theo những điều kiện kinh tế hiện tại dựa trên cơ sở phương trình này. Số tcòn lại, có ỷ trọng là s, được đặc trưng bởi giá cả cứng nhắc. Họ ấn định giá cả trước và duy trì nó trong một khoảng thời gian nhất định có thể do chi phí thực đơn hay vì một lý do nào khác. Họ định giá trên cơ sở kỳ vọng về những điều kiện kinh tế tương lai. Điều này liên quan đến dự đoán cả về cầu và mức giá chung. Để đơn giả n, chúng ta giả định các doanh nghiệp này dự kiến sản lượng ở mức tự nhiên, nên biểu thức cuối cùng β−(Yee Y* ) bằng không. Khi đó, giá mà các doanh nghiệp này quy định sẽ là PP= e . Mức giá thực tế trong nền kinh tế là số trung bình gia quyền của hai tập hợp giá cả này: e PsP(ls)P=+−+β−⎣⎡ ( YY*)⎦⎤ Chúng ta có thể giải phương trình này và thu được: PP=+β−e [ (ls)/s(YY*)] − Kết luận đầu tiên mà chúng ta có thể rút ra từ phương trình này là nếu sản lượng ở mức tự nhiên, giá cả thực tế đúng bằng mức dự kiến. Điều này rất có ý nghĩa. Các doanh nghiệp với giá cả cứng nhắc đơn giản định giá cho sản phẩm của họ bằng mức giá dự kiến, trong khi nếu sản lượng ở mức tự nhiên, các doanh nghiệp với giá cả linh hoạt định giá đúng bằng mức giá thực tế. Phương trình này cũng chỉ ra rằng nếu tổng cầu cao, do đó Y cao hơn Y*, thì mức giá thực tế sẽ cao hơn mức giá dự kiến. Cầu cao làm cho các doanh nghiệp có giá cả linh hoạt tăng giá. Nếu mọi doanh nghiệp điều có giá cả linh hoạt, thì sản lượng sẽ không bao giờ vượt quá mức tự nhiên. Hành vi của các doanh nghiệp với mức giá cả cứng nhắc có vai trò hạn chế sự biến động của giá cả. Sự phản ứng của mức giá chung đối với các cú sốc về sản lượng phụ thuộc vào hỗn hợp giữa hai loại doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi chúng ta biến đổi phương trình này, chúng ta nhận được phương trình quen thuộc biểu diễn đường tổng cung: YY*(PP)=+α−e s Trong đó α= (1−β s) Giống như các mô hình khác, mô hình giá cả cứng nhắc cũng hàm ý rằng đường tổng cung ngắn hạn dốc lên. Phương trình này chỉ ra đường tổng cung thoải hơn (sản lượng phản ứng mạnh hơn với sự thay đổi giá cả) khi s lớn và β nhỏ. Khi có nhiều doanh nghiệp với giá cả cứng nhắc trong nền kinh tế, mức giá sẽ ở gần mức giá dự kiến của nó ngay cả khi sản lượng ở rất xa mức tự nhiên. 162
  3. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu Trên một số phương diện mô hình này về đường tổng cung rất khác so với ba mô hình trước đây. Trong khi hình dáng đường tổng cung thực ra giống nhau, nhưng luận cứ không phải là giá cả cao bất thường dẫn đến mức sản lượng cao mà trái lại là khi sản lượng cao, giá cả có xu hướng cao. Tuy nhiên, hãy ghi nhớ là cả mức giá và sản lượng đều là các biến nội sinh. 6.4. Mối quan hệ giữa các mô hình AD-AS và IS-LM trong ngắn hạn và dài hạn Sự điều chỉnh từng bước của mức giá sẽ làm cho nền kinh tế di chuyển từ ngắn hạn sang dài hạn. Điều này thể hiện như sau: Bảng 6.1: Sự thay đổi mức giá Cân bằng trong ngắn hạn, nếu Sau đó theo thời gian, mức giá sẽ Y> Y* Tăng Y< Y* Giảm Y= Y* Vẫn cố định Giả sử có cú sốc ngược chiều của đường IS như: Chi tiêu của Chính phủ giảm, hoặc thuế tăng, hoặc tiêu dùng của dân cư giảm, hoặc đầu tư giảm, khi đó đường IS sẽ dịch chuyển sang trái (Hình 6.9). Trong mô hình IS-LM, lãi suất và thu nhập của nền kinh tế đều giảm. Theo mô hình AD-AS, theo thời gian, giá sẽ giảm đều đặn, đường tổng cung trong ngắn hạn dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Cung tihềnự t c tế (M/P) tăng lên, đường LM dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Nếu mức sản lượng thực tế vẫn nhỏ hơn sản lượng tiềm năng (Y < Y*) thì mức giá sẽ càng giảm (M/P) sẽ càng tăng, đường LM sẽ càng dịch chuyển sang phải. Quá trình này tiếp diễn xảy ra cho đến khi nền kinh tế đạt được cân bằng dài hạn Y = Y*. ASL Mức LM(P ) lãi suất 1 LM(P2 ) IS1 IS2 0 Y* Sản lượng (Y) Mức ASL giá (P) ASS1 ASS2 P1 P2 AD1 AD2 0 Y* Sản lượng (Y) Hình 6.9. Ảnh hưởng của cú sốc đường IS trong ngắn hạn và dài hạn Điều gì xảy ra đối với các cú sốc của đường LM, bạn đọc hãy thử nghiên cứu xem. 6.5. Hai nguyên nhân gây ra biến động kinh tế 6.5.1. Các cú sốc cầu Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Sự dao động của sản lượng xung quanh mức tự 163
  4. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu nhiên được gọi là chu kỳ kinh doanh. Điều này thường được coi là tốn kém và không mong muốn. Vì Chính phủ có thể tác động đến tổng cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, do đó Chính phủ có thể cân nhắc việc sử dụng các chính sách này để ổn định nền kinh tế. Ví dụ, giả sử nền kinh tế Việt Nam ban đầu ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng. Nếu các nhà đầu tư và các hộ gia đình bi quan về triển vọng phát triển của nền kinh tế và chi tiêu ít hơ n, thì điều này sẽ làm giảm tổng cầu. Trên đồ thị, đường tổng cầu dịch chuyển sang trái từ AD1 đến AD2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Các doanh nghiệp phản ứng lại sự giảm sút doanh số bán ra và sản xuất bằng cách cắt giảm việc làm. Hình 6.10. Ảnh hưởng của sự cắt giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ điểm A đến điểm B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1. Khi nền kinh tế chuyển từ A đến B, sản lượng giảm từ Y* xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2. Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với một cuộc suy thoái như vậy? Một khả năng là thực hiện các biện pháp để kích thích tổng cầu, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Nếu các nhà hoạch định chính sách hành động kịp thời và chính xác, họ có thể triệt tiêu sự dịch chuyển ban đầu của đường tổng cầu, đẩy nó trở về AD1 và đưa nền kinh tế về điểm A. Ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách không can thiệp gì cả thì cuộc suy thoái cũng sẽ tự hồi phục sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức giá giảm xuống. Có thể, kỳ vọng bắt kịp thực tế và mức giá dự kiến cũng giảm. Do sự giảm sút của mức giá dự kiến làm thay đổi nhận thức, tiền lương và giá cả, nên nó làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch sang phải, từ AS1 sang AS2 như trong đồ thị trên. Theo thời gian, quá trình hiệu chỉnh này của kỳ vọng cho phép nền kinh tế tiến dần đến điểm C, điểm mà đường tổng cầu mới (AD2) cắt đường tổng cung dài hạn.Tại điểm cân bằng dài hạn C, sản lượng trở lại mức tự nhiên. Mặc dù làn sóng bi quan làm giảm tổng cầu, nhưng sự giảm sút của mức giá (đến P3) đủ để bù đắp sự thay đổi của tổng cầu. Như vậy, trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà không hề có một ảnh hưởng nào tới sản lượng. Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự dịch chuyển đường tổng cầu là làm thay đổi các biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ không phải làm thay đổi các biến thực tế (sản lượng như cũ). 164
  5. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu 6.5.2. Các cú sốc cung Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như: Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của công đoàn làm tăng tiền lương; Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới. Hình 6.11. Cú sốc bất lợi và chính sách điều tiết phù hợp Đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất. Ở mỗi mức giá cho trước, các hãng muốn bán ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Trên hình 6.11, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y* xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với hiện tượng suy thoái đi kèm lạm phát? Quả là không có những lựa chọn dễ dàng trong trường hợp này. Một trong những khả năng là các nhà hoạch định chính sách có thể muốn triệt tiêu tác động của sự dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn đến sản lượng bằng cách tăng tổng cầu. Trong trường hợp này, thay đổi trong chính sách làm đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban đầu. Nền kinh tế chuyển đến điểm C. Sản lượng trở về mức tiềm năng và mức giá tiếp tục tăng lên P3. Trong trường hợp này, các nhà hoạch định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của tổng cung bởi họ cho phép sự tăng lên trong chi phí ảnh hưởng đến giá cả một cách lâu dài. Nghiên cứu điển hình thắt chặt tiền tệ hợp lý khi dầu tăng giá Giá dầu leo thang, chính sách tiền tệ phải "thắt chặt” vừa đủ để giúp kiềm chế lạm phát, cũng 165
  6. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu phải "nới lỏng" vừa đủ nhằm tránh những tác động không cần thiết tới tăng trưởng kinh tế. Đợt tăng giá dầu lần thứ 4 (năm 2004), hoặc các đợt tăng giá xăng dầu năm 2007 – 2008, gây nhiều lo ngại về ảnh hưởng tới Kinh tế Vĩ mô và những vấn đề mà chính sách tiền tệ phải đối mặt. Nếu như 3 đợt khủng hoảng dầu trước (1973 – 74; 1979 – 80; 1990 – 91) xảy ra đều thuần túy do nguồn cung giảm mạnh, xuất phát từ các cuộc chiến của các nước thuộc khu vực dầu mỏ, thì nguyên nhân của đợt tăng giá dầu hiện tại chủ yếu do cầu về xăng dầu tăng cao. Trước tiên, hãy xem xét giá dầu gia tăng tác động đến lạm phát theo cơ chế nào. Sơ đồ sau có thể được xem như một kiểu mô hình tiêu chuẩn cho việc xác định lạm phát, nơi mà lạm phát được khống chế bởi 3 nhân tố: Kỳ vọng, chênh lệch cung cầu và các loại cú sốc khác nhau, trong trường hợp này là sốc về giá dầu. Tác động của giá dầu đến lạm phát Thứ nhất, giá dầu tác động gia tăng lạm phát qua 2 cách: Trực tiếp và gián tiếp. Về tác động trực tiếp, khi giá dầu tăng cũng có nghĩa là các nhóm hàng hóa nhất định trong thành phần của CPI mà chủ yếu là nhóm xăng, dầu nhiên liệu gia tăng; về tác động gián tiếp, giá dầu gia tăng làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và do đó làm tăng giá bán thành phẩm. Thứ hai, giá dầu tác động tới lạm phát qua kênh chênh lệch cung cầu của nền kinh tế: Về nguyên lý nếu tổng cầu gia tăng và tổng cung cũng gia tăng một lượng tương ứng, có nghĩa là cung vẫn đáp ứng đủ cầu thì sẽ không gây nên lạm phát (chênh lệch tổng cầu và tổng cung lúc này sẽ bằng không). Nhưng nếu sự gia tăng của tổng cầu lớn hơn sự gia tăng của tổng cung có nghĩa là cung không đáp ứng đủ cầu sẽ tạo ra áp lực lạm phát (chênh lệch tổng cầu lúc này sẽ lớn hơn 0) và trong trường hợp ngược lại sẽ là giảm phát. Do đó, hiểu một cách đơn giản nhất là khi giá dầu tăng dẫn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng làm lợi nhuận doanh nghiệp bị co lại, dẫn đến sản xuất suy giảm, tổng cung của nền kinh tế vì vậy sẽ suy giảm. Mặt khác, khi giá dầu tăng cũng làm tăng phần chi tiêu cho các sản phẩm về dầu và phần chi tiêu cho các sản phẩm ngoài dầu đương nhiên sẽ bị giảm xuống khiến tổng cầu nền kinh tế cũng giảm. Như vậy, một sự tăng lên trong giá dầu sẽ đồng thời làm cả tổng cung và tổng cầu đều suy giảm. Cả hai tác động này cùng làm sản xuất suy giảm dẫn đến tăng trưởng kinh tế suy giảm nhưng lại tác động ngược chiều đến lạm phát: Trong khi tác động của tổng cung suy giảm đẩy giá lên thì tác động của tổng cầu suy giảm lại đẩy giá xuống. Tuy nhiên, thực nghiệm cho thấy sự tăng lên trong giá dầu có xu hướng trùng với sự gia tăng lạm phát, đây là lý do hợp lý để giả định rằng tác động của bên cung sẽ mạnh hơn tác động bên cầu. 166
  7. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu Tác động của giá dầu tăng Thứ ba, giá dầu tăng tác động gia tăng lạm phát qua lạm phát kỳ vọng: Một sự gia tăng của giá dầu sẽ nhanh chóng lan tỏa tới các loại giá khác của nền kinh tế. Sự lan tỏa càng cao thì lạm phát kỳ vọng càng lớn. Ngược lại, khi lạm phát kỳ vọng càng lớn thì tác động lan tỏa sang các nhóm hàng hóa khác càng nhiều. Mức độ lan tỏa của sự thay đổi giá dầu đến các giá khác và tác động lên lạm phát kỳ vọng phụ thuộc phần lớn vào sự điều hành chính sách tiền tệ và lòng tin vào chính sách này. Phân tích trên cho thấy, giá dầu tăng cùng lúc có xu hướng đẩy lạm phát gia tăng và làm tăng trưởng kinh tế suy giảm, nên thường gây khó khăn cho chính sách tiền tệ. Ngân hàng Trung ương chỉ có một công cụ là lãi suất chủ chốt và có thể sử dụng nó để tác động lên tổng cầu (hay tăng trưởng kinh tế) và lạm phát theo cùng một hướng (đối với Việt Nam, lãi suất đã được tự do hóa, do đó lãi suất thị trường sẽ bị tác động thông qua việc các công cụ chính sách tiền tệ tác động lên mức cung tiền). Khi lãi suất được cắt giảm, tổng cầu trong nền kinh tế tăng lên tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng làm lạm phát tăng lên, và khi lãi suất tăng lên thì tăng trưởng kinh tế và lạm phát cùng giảm. Như vậy, nếu có một cú sốc tác động vào tăng trưởng kinh tế và lạm phát theo hướng ngược nhau như cú sốc về giá dầu thì Ngân hàng Trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc cùng lúc phải ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hướng tới việc giảm mạnh lạm phát thì điều này sẽ khiến tăng trưởng kinh tế cũng sẽ suy giảm hơn nữa. Nếu thay vào đó Ngân hàng Trung ương cân nhắc khuyến khích tăng cầu thì trong một phạm vi nào đó nhằm trung hòa bớt sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế (do cả tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế đều đã suy giảm trước sự gia tăng của giá dầu) bằng Chính sách tiền tệ nới lỏng thì kết quả sẽ là lạm phát tăng lên, và một khi lạm phát gia tăng thì kỳ vọng cũng tăng lên theo do đó sẽ khó khăn hơn nữa trong việc kiểm soát lạm phát. Như vậy, khi giá dầu tăng cao thì một chính sách tiền tệ linh hoạt cần thiết phải được thực hiện, đó là chính sách tiền tệ “thắt chặt” vừa đủ để tránh sự thúc đẩy lạm phát hơn nữa từ việc giá dầu tăng cao nhằm kiềm chế việc lan tỏa tới tiền lương, giá các nhóm hàng hóa khác và lạm phát kỳ vọng; và chính sách tiền tệ “nới lỏng” vừa đủ để tránh những tác động tiêu cực không cần thiết tới tăng trưởng kinh tế. Đây là quy tắc hoạch định chính sách linh hoạt, nhưng cũng khó để có thể nói cụ thể hơn. Câu hỏi về việc chính sách nào sẽ là thích hợp nhất phải được xác định trong từng trường hợp, phụ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô hiện tại, đặc biệt là những nhân tố khác tác động vào lạm phát hiện tại và những dự báo về giá dầu trong tương lai. Tuy nhiên, đối với các quốc gia theo đuổi lạm phát mục tiêu, thường thì khi giá dầu tăng dẫn đến sức ép lạm phát trong dài hạn sẽ gia tăng hơn mức vốn có. Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ thắt chặt hơn một cách vừa phải là cần thiết để đưa lạm phát trở về với mức lạm phát mục tiêu. Bài viết của Th.s Nguyễn Thu, Trưởng phòng Phân tích kinh tế (Ngân hàng Nhà nước). 167
  8. Bài 6: Mô hình tổng cung và tổng cầu TÓM LƯỢC CUỐI BÀI Sau khi nghiên cứu xong bài 6, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau: • Hiện nay, phần lớn các nhà kinh tế đều dựa vào mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các tác động của các chính sách vĩ mô đến sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, của nền kinh tế. Hiểu mô hình và biết cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và chính sách của chính phủ là rất quan trọng đối với các nhà kinh tế. • Hiệu ứng Pigou: Với mức giá thấp hơn, lượng tiền mà các hộ gia đình đang nắm giữ trở nên có giá trị hơn. Các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn, làm tăng tiêu dùng. • Hiệu ứng Keynes: Với mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng hóa như cũ. Họ cho vay một phần số tiền thừa, làm cho lãi suất giảm đi và có tác dụng kích thích đầu tư. • Hiệu ứng tỷ giá hối đoái: Việc giảm giá trong nước làm cho hàng hóa nội địa trở nên rẻ một cách tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và làm tăng thành phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu. • Đường tổng cầu được rút ra từ mô hình IS-LM cho thấy mối quan hệ giữa mức tổng cầu thực tế và mức giá. Bất cứ sự thay đổi nào trong các yếu tố tác động tới đường IS và LM cũng ảnh hưởng tới đường AD. Ví dụ, bất kỳ sự gia tăng nào trong mức chi tiêu thực tế của Chính phủ được tài trợ bằng trái phiếu mà làm dịch chuyển đường IS về phía phải, thì cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải. Sự gia tăng trong khối lượng tiền tệ danh nghĩa – điều làm cho đường LM dịch chuyển về phía phải đối với mọi mức giá – cũng làm cho đường AD dịch chuyển về phía phải. • Đường tổng cung cổ điển được thiết lập trên cơ sở giả định về sự cân bằng thị trường và quá trình điều chỉnh tiền lương thực tế. Các phân tích hiện đại về tổng cung đều có chung kết luận là đường tổng cung ngắn hạn có độ dốc dương. Phương trình cơ bản về đường tổng cung ngắn hạn của chúng ta là: YY*(PP)=+α−e , trong đó, α là một số dương và Pe biểu diễn kỳ vọng về mức giá. • Có bốn mô hình khác nhau giải thích về đường tổng cung ngắn hạn: (1) mô hình tiền lương cứng nhắc, (2) mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, (3) mô hình thông tin không hoàn hảo, và (4) mô hình giá cả cứng nhắc. Các mô hình này có một số đặc điểm chung, và mỗi mô hình chỉ giải thích được một số khía cạnh nhất định của thực tế. • Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu (cú sốc cầu) sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và mức giá. Điều này thường được coi là tốn kém và không mong muốn. • Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi. Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như: Thời tiết xấu làm giảm sản xuất lương thực; do sức ép của công đoàn làm tăng tiền lương; OPEC hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới. Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất. Khi xảy ra cú sốc cung, mức giá tăng lên, sản lượng của nền kinh tế giảm xuống, xảy ra hiệ n tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát. 168