Tài liệu Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế trong nền kinh tế thị trường

Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu đó
là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc
tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau
giữa nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều
có xu hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập với nền
kinh tế Thế giới thì vai trò của nhập khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng.
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng
hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu mã cho phép thoả
mãn nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của
sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển
trong xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra động lực bắt buộc
các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, tạo ra sự phát triển xã hội và
sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự
cấp, tự túc.
- Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc quá hiện đại mà
trong nước không thể sản xuất được).
- Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước với nhau,
tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của
đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá. 
pdf 27 trang hoanghoa 10/11/2022 2620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế trong nền kinh tế thị trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_nhap_khau_hang_hoa_mot_hoat_dong_co_ban_cua_kinh_do.pdf

Nội dung text: Tài liệu Nhập khẩu hàng hoá - Một hoạt động cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế trong nền kinh tế thị trường

  1. Hệ thống tài chính ngân hàng. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, nó can thiệp sâu tới tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù tồn tại dưới hình thức nào, thuộc thành phần kinh tế nào. Có được điều đó là bởi nó đóng vai trò hết sức to lớn trong hoạt động quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, chính xác, nhanh chóng cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực hiện được nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dựa trên các thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu, đảm bảo cho họ về mặt lợi ích kỹ thuật cũng như xã hội và cũng nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà các doanh nghiệp với số lượng vốn lớn kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp chớp được những thời cơ kinh doanh. Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc: Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với hoạt động vận chuyển và thông tin liên lạc. Nhờ có thông tin liên lạc hiện đại mà công việc có thể tiến hành thuận lợi, kịp thời. Còn việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là một công việc hết sức quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Do đó sự hiện đại hoá công việc nghiên cứu và áp dụng những công nghệ tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào hệ thống thông tin và giao thông vận tải là tất yếu ảnh hưởng to lớn đến hoạt động nhập khẩu. Trên đây, chúng ta đã xem xét một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động nhập khẩu của bất cứ một quốc gia nào. Bên cạnh đó cũng còn rất nhiều nhân tố khác. Vì vậy hoạt động nhập khẩu hết sức phức tạp và có mối tác động qua lại tương hỗ với nhiều hoạt động khác trong nền kinh tế. 9/25
  2. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu Nghiên cứu thị trường nhập khẩu Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Việc nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên cũng là công việc đòi hỏi cần được tiến hành liên tục thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường trong nước. Việc nghiên cứu thị trường trong nước nhằm mục đích nhận biết sản phẩm nhập khẩu, từ đó chọn ra mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Muốn như vậy phải trả lời được những câu hỏi sau: * Thị trường trong nước cần những mặt hàng gì? Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ra sao? Cần phải xác định được nhu cầu của người tiêu dùng về các mặt hàng một cách cụ thể về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, số lượng để nhập khẩu hàng hoá về thoả mãn đúng, đủ, kịp thời những nhu cầu đó. * Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Tình hình sản xuất mặt hàng đó ở trong nước như thế nào? Mỗi sản phầm hàng hoá đều có chu kỳ sống riêng. Chu kỳ sống của mỗi sản phẩm bao gồm các pha: pha giới thiệu, pha phát triển, pha hưng thịnh, pha bão hoà, pha suy thoái, ở mỗi pha chu kỳ sống, nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm là rất khác nhau, biểu hiện ra thành hành động mua cũng cũng rất khác nhau. Do vậy để kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao cần thiết phải nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm và nắm bắt được sản phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống. Bên cạnh nghiên cứu nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu, cần phải nghiên cứu để biết được cung trong nước về hàng hoá đó. Chênh lệch nhu cầu về hàng hoá và cung trong nước của hàng hoá đó chính là nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu. Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đến cung của một hàng hoá là khả năng sản xuất và tốc độ phát triển sản xuất của hàng hoá đó. Do vậy, muốn biết được nên kinh doanh nhập khẩu mặt hàng gì với số lượng là bao nhiêu cần phải nghiên cứu tình hình trong nước về sản xuất mặt hàng đó như thế nào. 10/25
  3. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế. Một trong những yếu tố quan trọng của thị trường là cung về hàng hoá. Kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế là một yếu tố khách quan. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất trên phạm vi quốc tế. Tức là việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở lĩnh vực lưu thông mà còn nghiên cứu cả trong lĩnh vực sản xuất và phân phối hàng hoá. Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm hiểu biết về quy luật hoạt động của chúng- thể hiện qua nhu cầu, cung ứng, và giá cả - liên hệ với điều kiện của doanh nghiệp và nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu ở trong nước để quyết định kinh doanh mặt hàng gì và lựa chọn đối tác kinh doanh thích hợp. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một mặt hàng là khối lượng hàng hoá đó được giao dịch trên một khu vực thị trường nhất định (một quốc gia, một khu vực hay trên toàn thế giới) trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Dung lượng thị trường không phải là yếu tố tĩnh mà thường xuyên biến động do nó chịu sự tác động tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau. Nghiên cứu dung lượng thị trường nhằm mục đích xác định được vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Còn việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường để có thể dự đoán được sự biến động của nó trên cơ sở đó vạch ra các kế hoạch chiến lược kinh doanh dài hạn và ngắn hạn cho doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường tập trung vào những nhân tố chủ yếu sau: * Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ: bao gồm: sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. - Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá. Nắm vững ảnh hưởng của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng các kết quả nghiên cứu thị trường và giá cả để chọn thời gian giao dịch thích hợp nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. - Nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hoá trên cả ba khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. Một số hàng hoá chịu ảnh hưởng của các yếu tố mang tính chất thời vụ do đó việc sản xuất, lưu thông, tiêu dùng những hàng hoá này cũng rất khác 11/25
  4. nhau nên sự tác động của nhân tố thời vụ đến dung lượng thị trường của những hàng hoá khác nhau cũng rất khác nhau. Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi phải nắm vững đặc điểm của mặt hàng kinh doanh và tính chất thời vụ của nó để ra các quyết định đúng đắn về hành động mua, vận chuyển và phân phối hàng hoá đó trong nước. * Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài. Có những nhân tố không làm thay đổi dung lượng thị trường hàng hoá một cách nhanh chóng mà ta có thể dễ dàng nhận biết ngay được. Những nhân tố này có thể gây những biến động rất lớn về dung lượng thị trường nhưng phải trải qua một quá trình chứ không phải trong một thời gian ngắn. Có thể đến các nhân tố như tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp và chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng, ảnh hưởng của các hàng hoá thay thế. * Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời: Các nhân tố có thể kể đến là: các yếu tố tự nhiên, thiên tai, bão lụt, hạn hán gây ra sự biến đổi cung cầu của một số mặt hàng nhất định. Cần phải nghiên cứu các yếu tố này để có thể đối phó được với các tình huống bất ngờ xảy ra. 1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên phạm vi thị trường thế giới. Trên thị trường thế giới, giá cả không những phản ánh mà còn điều tiết cung cầu. Việc xác định đúng đắn giá cả trên thị trường quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả Thương mại Quốc tế. Cụ thể nó sẽ làm tăng thu ngoại tệ trong xuất khẩu và giảm chi ngoại tệ trong nhập khẩu. * Dự đoán xu hướng biến động của giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy. Tuỳ theo mục đích mà dự báo xu hướng biến động của giá cả trong thời gian ngắn và dài. Kết quả nghiên cứu dự báo trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích lập kế hoạch nhập khẩu hàng năm. Dự báo trong thời gian ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hiện tại. * Các nhân tố tác động lên xu hướng biến động giá cả của hàng hoá. Các nhân tố tác động lâu dài: - Nhân tố chu kỳ: sự vận động có tính chất quy luật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa qua các giai đoạn của chu kỳ sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu về các loại hàng hoá đó trên thị trường. Khi quan hệ cung cầu trên thị trường thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của giá cả hàng hoá là một điều tất yếu. 12/25
  5. - Nhân tố lũng đoạn và giá cả: lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một khu vực thị trường tuỳ theo mối quan hệ giữa người mua và người bán. - Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo những xu hướng khác nhau. Cạnh tranh giữa những người bán xảy ra khi trên thị trường có xu hướng cung lớn hơn cầu khiến cho giá có xu hướng giảm xuống. Cạnh tranh giữa những người mua xuất hiện trên thị trường khi cầu có xu hướng lớn hơn cung làm cho giá cả trên thị trường có xu hướng tăng lên. Đây cũng chính là mối quan hệ giữa cung cầu và giá cả. - Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của nó, mà còn được quyết định bởi giá trị của một đơn vị tiền tệ hiện hành. Trên thị trường thế giới, giá cả hàng hoá thường là sự biểu hiện giá trị của nó thông qua những đồng tiền mạnh (như Đôla Mỹ, Demac Đức, Bảng Anh ). Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường, bản thân giá trị của đồng tiền cũng có thể bị thay đổi. Lạm phát và giảm phát làm cho giá cả của hàng hoá tăng lên hay giảm xuống một cách bất thường. * Xác định giá xuất - nhập đối với thị trường có quan hệ giao dịch. Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của các nhân tố, ta có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả trên thị trường thế giới, từ đó xác định được mức giá cho từng mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập. Nếu hàng hoá nhập khẩu là đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có các trung tâm giao dịch quốc tế thì nhất thiết phải tham khảo thị trường thế giới về hàng hoá đó. Đồng thời cần tham khảo giá xuất khẩu loại hàng hoá đó từ khu vực thị trường các nước bạn hàng đi các nước nhập khẩu khác. Cần chú ý tới cước phí vận tải, các chế độ ưu đãi thuế quan để định giá cho chính xác. Với các mặt hàng nhập khẩu thông thường, có thể dựa vào giá chào hàng của các đơn vị cung ứng, giá nhập khẩu của các năm trước đó có tính đến các thay đổi của sản phẩm và các yếu tố có liên quan để đưa ra một mức giá nhập khẩu hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. 13/25
  6. Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu Lựa chọn đối tượng giao dịch Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vấn đề lựa chọn đối tượng để giao dịch và lựa chọn thương nhân. Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chúng ta cần nghiên cứu tình hình chung của nước đó như khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu của họ, chính sách, luật pháp, tập quán thương mại Khi lựa chọn thương nhân để giao dich, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất là nên chọn người sản xuất để nhập khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, khi muốn thâm nhập vào thị trường mới, mặt hàng mới thì việc giao dịch qua trung gian với tư cách là đại lý môi giới lại có ý nghĩa quan trọng. Để lựa chọn được chính xác và đúng đắn, không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu, mà cần phải tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, uy tín và mối quan hệ của họ trong kinh doanh. Khi nghiên cứu những vấn đề trên đây, người ta áp dụng hai phương pháp chủ yếu sau: - Điều tra qua tài liệu và sách báo hay còn gọi là điều tra tại phòng làm việc. Đây là phương pháp phổ biến nhất và tương đối tốn kém. Tài liệu thường dùng để nghiên cứu là các bản tin giá cả thị trường của VNTTX và của trung tâm thông tin kinh tế đối ngoại, các báo cáo của cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài, các báo tạp chí như: MOCI (Pháp), Far Eastern Economic Review (Anh), Financial Time (Anh) - Điều tra tại chỗ (Fiel reseach) theo phương pháp này người ta cử người đến tận thị trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân. Phương pháp này tuy tốn kém nhưng giúp đơn vị kinh doanh mau chóng nắm được những thông tin chắc chắn và toàn diện. Ngoài hai phương pháp trên đây, người ta còn có thể sử dụng các phương pháp sau: mua, bán thư, mua dịch vụ thông tin của các công ty điều tra tín dụng, thông qua người thứ ba để tìm hiểu Đàm phán và ký kết hợp đồng. a. Thương lượng, đàm phán hợp đồng nhập khẩu. 14/25
  7. Sau giai đoạn nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lựa chọn đối tượng giao dịch, các doanh nghiệp tiến hành xúc tiến việc chuẩn bị ký kết hợp đồng nhập khẩu. Nhưng để tiến tới ký hợp đồng mua bán với nhau, người nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch, công việc này trong hoạt động ngoại thương gọi là đàm phán có thể đàm phán giao dịch qua thư tín, điện thoại nhưng đối với những hợp đồng lớn, phức tạp, cần giải thích thoả thuận cụ thể với nhau thì nên giao dịch đàm phán với nhau bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Đàm phán theo phương pháp này tuy chi phí cao nhưng đảm bảo hiệu quả và nhanh chóng. Trình tự đàm phán như sau: - Hỏi giá: do bên mua (bên nhập khẩu) đưa ra, tức là phải nêu rõ tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, điều kiện thanh toán (loại tiền thanh toán, thể thức thanh toán ). Về phương diện pháp lý thì đây là lời thỉnh cầu trước khi bước vào giao dịch, về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho biết giá cả hàng hoá và các điều kiện mua hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá. - Phát giá: luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán ngoại thương, phát giá là chào hàng thường do người xuất khẩu thể hiện ý định bán hàng của mình bằng cách nêu rõ các điều kiện đã nêu trong hỏi giá (chú ý có thêm điều kiện giao hàng). - Hoàn giá: bên mua không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới. - Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện chào hàng. - Xác nhận: hai bên mua và bán sau khi đã thống nhất với nhau về điều kiện giao dịch có thể lập hai văn kiện ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho nhau. Trong các bước giao dịch đàm phán trên thì chào hàng và đặt hàng là hai khâu được quan tâm hơn cả vì đó là cơ sở để dẫn đến ký kết hợp đồng nhập khẩu. Việc giao dịch, đàm phán sau khi đã có kết quả sẽ dẫn đến ký kết hợp đồng nhập khẩu. b. Hợp đồng nhập khẩu. Hợp đồng nhập khẩu chính là hợp đồng kinh tế ngoại thương, trong đó có sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác nhau về chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, nghĩa vụ thanh toán, trả tiền nhận hàng. Hợp đồng kinh tế ngoại thương của nước ta bắt buộc phải thể hiện dưới hình thức văn bản. Bởi đây là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên, nó xác định rõ ràng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm 15/25
  8. do không thống nhất về quan niệm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện. Hợp đồng nhập khẩu có các điều khoản chủ yếu như sau: + Phần mở đầu: Ghi thông tin về số hợp đồng, ngày và nơi ký hợp đồng, về chủ thể hợp đồng (tên giao dịch Quốc tế, địa chỉ, số điện thoại ) + Điều khoản tên hàng: Tên hàng phải ghi rõ, chính xác để không xảy ra hiểu lầm, có thể ghi rõ địa danh sản xuất (xuất xứ hàng hoá), nhà sản xuất, quy cách, tên thông dụng, tên thương mại, tên khoa học (nếu có) + Điều khoản số lượng: Ghi rõ số lượng, khối lượng, trọng lượng, quy cách, đơn vị đo lường Nếu số lượng quy định khoảng chừng phải dự liệu theo một sai số có thể chấp nhận được. Trọng lượng hàng hoá có thể tính cả trọng lượng bì hoặc không (phải ghi rõ). Cũng có thể tính trọng lượng hàng hoá theo trọng lượng thương mại tức là có độ ẩm tiêu chuẩn. + Điều khoản phẩm chất: Hợp đồng phải ghi rõ tiêu chuẩn quy định phẩm chất của hàng hoá, tính năng cơ, lý, hoá, công suất, hiệu suất (máy móc), thẩm mỹ để phân biệt hàng hoá này với hàng hoá khác. Cũng có thể căn cứ vào mẫu mã hàng hoá và các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá hay căn cứ vào một tiêu chuẩn được công nhận trong tập quán Thương mại Quốc tế. + Điều khoản bao bì: Điều quan trọng nhất trong kinh doanh Thương mại Quốc tế là phải bảo đảm hàng hoá có bao bì phù hợp tính năng, hình dáng kích thước của hàng hoá và phương thức vận tải. Còn về phương thức xác định giá cả của bao bì: nếu bên bán chịu trách nhiệm cung cấp bao bì, thì việc tính giá của bao bì có thể có mấy trường hợp: giá cả bao bì được tính vào giá cả hàng hoá (không tính riêng), giá cả của bao bì do bên mua trả riêng, và giá cả của bao bì được tính như giá cả của hàng hoá. + Điều khoản cơ sở giao hàng: Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh XNK đều có thể áp dụng một trong 13 điều khoản cơ sở giao hàng Incoterm 2000 + Điều khoản giá cả: bao gồm đồng tiền tính giá và mức giá. Đồng tiền tính giá có thể dùng tiền của nước nhập khẩu, xuất khẩu hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. Mức giá tức mức giá Quốc tế mà các bên phải tuân theo. Phương pháp quy định giá có thể theo các loại sau: Giá cố định: tức là giá được quy định khi ký kết hợp đồng mà không sửa đổi. 16/25
  9. Giá quy định: được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giá linh hoạt: là giá có thể được điều chỉnh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giá di động: người ta quy định mức giá ban đầu, sau đó tính toán lại trong khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá ban đầu. Nhưng trong việc xác định giá cả, thông dụng hơn cả người ta luôn luôn định rõ điều kiện cơ sở giao hàng có liên quan với giá đó. Sở dĩ như vậy là vì điều kiện giao hàng đã bao hàm các trách nhiệm và các chi phí mà người bán phải chiụ trong việc mua hàng như: vận chuyển, bốc dỡ, mua bảo hiểm, chi phí lưu kho, làm thủ tục hải quan Vì vậy trong các hợp đồng mua bán, mức giá bao giờ cũng được xác định căn cứ và điều kiện cơ sở giao hàng và điều kiện cơ sở giao hàng ấy thường được ghi bên cạnh rõ ràng. + Điều khoản giao hàng: nội dung của điều khoản này xác định thời hạn, địa điểm, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên không có thoả thuận gì khác thì thời hạn này là lúc di chuyển rủi ro, tổn thất từ người bán sang người mua. Giao hàng không đúng hạn có thể thiệt hại và phải bồi thường. Có ba kiểu quy định giao hàng: giao hàng có định kỳ, giao hàng không có định kỳ và giao hàng ngay. Phương thức giao hàng: có thể quy định tiến hành tại một địa điểm nào đó, có thể giao sơ bộ, giao cuối cùng hoặc có thể giao nhận về số lượng, chất lượng Thông báo giao hàng: các điều kiện về cơ sở giao hàng đã bao hàm nghĩa vụ thông báo giao hàng. Tức là quy định nội dung và số lần thông báo khi người bán giao hàng xong. + Điều khoản thanh toán trả tiền: trong việc thanh toán trả tiền hàng, các bên thường phải xác định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiển, phương thức trả tiền và các điều kiện đảm bảo hối đoái. Đồng tiền thanh toán: giống như các điều khoản trên quy định trong Thương mại Quốc tế, đồng tiền thanh toán phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. Thời hạn thanh toán: trong Thương mại Quốc tế, bên nhập khẩu có thể trả tiền trước, trả tiền sau hoặc trả tiền ngay. Phương thức thanh toán: trong giao dịch Quốc tế, phương thức thanh toán phổ biến nhất là phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi và an toàn nhất. Nó là sự thoả thuận mà trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua trả tiền cho bên bán hoặc bất cứ người nào theo lệnh của bên bán trong một thời hạn nhất định khi bên bán xuất trình bộ chứng từ đầy đủ và đã thực hiện mọi yêu cầu được quy định trong một văn bản được gọi là thư tín dụng (letter 17/25