Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 12: Thuế và trợ cấp phát thải

Trước hết chúng ta hãy xem xét đến thuế phát thải, đôi khi còn được gọi là “phí phát thải”.
Thuế phát thải ngụ ý rằng chủ thể gây ô nhiễm có thể thải bất kỳ khối lượng chất thải bị
đánh thuế nào họ muốn, nhưng họ phải trả thuế cho mỗi đơn vị phát thải (ví dụ, tấn). Ví
dụ, một số chính phủ chấu Âu đánh thuế hàm lượng cácbon của nhiên liệu để giảm thải khí
CO2 và cải thiện vấn đề nóng lên toàn cầu. Khi thực thi thuế phát thải tác nhân xả thải phải
trả tiền cho dịch vụ môi trường – vận chuyển, pha loãng, và phân huỷ – giống như họ phải
trả tiền cho các đầu vào khác hoặc hàng hoá họ sử dụng. Mỗi khi ô nhiễm được “định giá”
bởi thuế, những ai phát thải sẽ có động cơ thải ít hơn; có nghĩa là bảo tồn việc sử dụng dịch
vụ môi trường của họ. Họ làm điều này bằng cách nào? Bằng bất cứ cách nào mà họ muốn
(trong khuôn khổ hợp lý). Điều này nghe có vẻ như đùa bỡn nhưng thực tế chính nó lại là
ưu điểm của kỹ thuật này. Bằng cách để cho các đối tượng gây ô nhiễm được tự do quyết
định cách nào tốt nhất để làm giảm việc xả chất thải, loại hình chính sách này nhằm sử
dụng ngay chính năng lực và óc sáng tạo cũng như lòng mong muốn tối thiểu hóa chi phí
của các công ty để tìm ra cách ít tốn kém nhất để cắt giảm chất thải. Có thể áp dụng kết
hợp nhiều phương án như xử lý, thay đổi quy trình sản xuất nội bộ, thay đổi các nhập
lượng, tái chế, chuyển qua hướng tạo ra những sản phẩm bớt gây ô nhiễm hơn
Cốt lõi của phương pháp thuế là tạo ra động cơ khuyến khích kinh tế để chính
các đối tượng gây ô nhiễm tự tìm phương cách tốt nhất nhằm cắt giảm mức
phát thải, thay vì để các giới chức ở cấp trung ương quyết định việc này cần
phải được thực hiện như thế nào. 
pdf 19 trang hoanghoa 08/11/2022 4140
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 12: Thuế và trợ cấp phát thải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_kinh_te_moi_truong_chuong_12_thue_va_tro_cap_phat_t.pdf

Nội dung text: Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 12: Thuế và trợ cấp phát thải

  1. Thuế phát thải và động cơ khuyến khích đổi mới công nghệ Một trong những ưu điểm chính của thuế phát thải là nó tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc đầu tư công nghệ mới nhằm giảm chi phí giảm ô nhiễm biên. Chúng ta sẽ thấy điều này qua hình 12-6, là hình thể hiện 2 đường chi phí giảm ô nhiễm biên của một công ty đã được trình bày trong hình 11-5. MAC1 đại diện cho tình hình hiện tại, cho biết chi phí công ty phải chịu khi giảm thải với công nghệ hiện có. MAC2 thể hiện chi phí giảm ô nhiễm của công ty sau khi sử dụng chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) để ứng dụng công nghệ giảm ô nhiễm mới. Công ty có động lực nào để đầu tư tiền vào chương trình R&D khi việc phát thải bị đánh thuế? Hình 12-6: Động cơ khuyến khích đầu tư công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới dưới tác động của thuế phát thải $ 200 MAC1 160 MAC2 100 c a e d b 0 10 15 20 30 40 Chất thải (tấn/năm) Thuế phát thải tạo động lực mạnh mẽ cho đầu tư vào R&D để giảm chi phí giảm ô nhiễm. Công nghệ mới (MAC2) làm tiết kiệm chi phí (a+c) với mức thuế suất 100$/tấn chất thải. Tiêu chuẩn quy định ở mức 20 tấn chất thải chỉ tiết kiệm được khoản chi phí a. Giả sử công ty phải chịu một mức thuế phát thải là 100$/tấn. Ban đầu công ty sẽ để thuế suất bằng với MAC1 và giảm phát thải xuống còn 20 tấn, tại đây tổng chi phí liên quan đến phát thải của công ty sẽ bao gồm (a + b) là chi phí giảm ô nhiễm và tiền thuế (c + d + e). Nếu công ty có thể hạ đường chi phí giảm ô nhiễm biên xuống MAC2 thông qua những hoạt động R&D, khi đó công ty sẽ giảm lượng phát thải xuống còn 15 tấn. Tại điểm này công ty sẽ phải trả (b + d) là chi phí giảm ô nhiễm và e tiền thuế. Tổng chi phí tiết kiệm được là (a + c). Nếu thay vào đó công ty phải tuân theo mức tiêu chuẩn phát thải là 20 tấn, thì khoản tiết kiệm chi phí của công ty với công nghệ mới này chỉ bằng a như chúng ta đã thấy trong chương 11. Đồng thời, như trong chương trước, nếu nhà chức trách thắt chặt hơn mức tiêu chuẩn khi công ty đã có công nghệ mới, chi phí tiết kiệm được của công ty có khi nhỏ hơn chi phí tiết kiệm được khi chưa thay đổi tiêu chuẩn.3 Có hai khác biệt giữa động cơ thay đổi công nghệ của thuế và tiêu chuẩn. 1. Với chính sách thuế phát thải nỗ lực R&D của công ty sẽ giảm được nhiều chi phí liên quan đến kiểm soát ô nhiễm (cho phí giảm ô nhiễm và tiền thuế) hơn khi áp dụng công cụ tiêu chuẩn. 3 Xem lại phần tác động khuyến khích trong chương 11. Barry Field & Nancy Olewiler 11
  2. 2. Với hệ thống thuế, công ty sẽ tự động giảm phát thải bởi vì công ty sẽ tìm cách dịch chuyển hàm số chi phí giảm ô nhiễm biên xuống dưới, trong khi công cụ tiêu chuẩn không cho phép thực hiện cơ chế này. Sự khác biệt là ở chỗ với công cụ thuế, đối tượng gây ô nhiễm phải trả tiền cho việc phát thải cũng như cho chi phí giảm ô nhiễm trong khi với công cụ tiêu chuẩn họ chỉ phải trả chi phí giảm ô nhiễm. Vì vậy khi áp dụng chính sách thuế, khả năng tiết kiệm được chi phí nhờ vào những kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm mới sẽ lớn hơn nhiều. Thuế phát thải và Chi phí cưỡng chế thực thi Thuế phát thải đặt ra nhiều vấn đề về việc cưỡng chế thực thi hơn là tiêu chuẩn phát thải. Bất cứ một hệ thống thuế nào cũng đòi hỏi phải có thông tin chính xác về mặt hàng sẽ bị đánh thuế. Nếu chúng ta muốn đánh thuế lên chất thải thì chi phí đo lường chất thải phải hợp lý. Điều này có nghĩa là chất thải xả ra từ một nguồn cần phải được tập trung thành một số dòng xác định được đủ để có thể quan trắc. Điều này loại trừ hầu hết những chất thải từ các nguồn phát thải phân tán (không phải là nguồn cố định), bởi vì chúng trải mỏng ra khắp một vùng rộng lớn khiến không thể đo lường được. Thông thường ta không thể đánh thuế những chất ô nhiễm tìm thấy trong nước thải nông nghiệp bởi vì bản chất lan truyền của “chất thải này” khiến không thể thực hiện được việc đo lường. Tuy nhiên nếu xác định được mối quan hệ giữa nhập lượng của sản xuất nông nghiệp và lượng chất thải, chúng ta có thể đánh thuế lên nhập lượng và kiểm tra chúng. Cũng khó đánh thuế một số chất thải hóa chất độc hại nhất định, bởi vì ngoài việc chúng là nguồn phân tán, chúng có số lượng quá nhỏ do đó rất khó để đo được tốc độ dòng chảy. Với thuế phát thải, cơ quan thẩm quyền về thuế sẽ gửi một hóa đơn tiền thuế tới những công ty gây ô nhiễm vào cuối mỗi tháng hay cuối năm, căn cứ trên tổng lượng phát thải của các công ty trong thời gian đó. Như vậy cơ quan này sẽ cần đến những thông tin về lượng chất thải tích lũy của mỗi nguồn. Công việc này phức tạp hơn so với việc thu thập thông tin về tốc độ thải bởi vì chất thải tích lũy là bằng tốc độ thải nhân với thời gian. Có nhiều cách để ta thu thập thông tin này. Có lẽ cách lý tưởng nhất là sử dụng những thiết bị quan trắc thường trực đo lường chất thải một cách liên tục trong thời gian cần thiết. Nếu không có công nghệ như thế, ta có thể quay lại sử dụng phương pháp kiểm tra tốc độ phát thải định kỳ, với khoảng thời gian giữa hai lần kiểm tra căn cứ trên thời gian kinh doanh bình thường hay để cho các công ty tự báo cáo. Hoặc một cách khác là thực hiện những nghiên cứu kỹ thuật để quyết định số lượng chất thải sẽ được xả trong tương lai là bao nhiêu trong những điều kiện hoạt động cụ thể, với nhập lượng được sử dụng cụ thể v.v. Yêu cầu quan trắc của chính sách thuế phát thải có nghiêm ngặt hơn so với một công cụ tiêu chuẩn tiêu biểu? Nếu thuế đánh trên lượng phát thải hàng ngày trong khi tiêu chuẩn lại dựa vào lượng phát thải hàng năm, chính sách thuế sẽ có chi phí giám sát cao hơn. Nhưng chúng ta có thể thống nhất cách quan trắc để bảo đảm việc thực thi thuế hay tiêu chuẩn. Tần suất quan trắc trong thực tế lại bị giới hạn bởi ngân sách của chính phủ. Câu hỏi chưa được trả lời là liệu tần suất quan trắc có tác động làm đối tượng gây ô nhiễm tuân thủ hơn khi bị đánh thuế hoặc áp dụng tiêu chuẩn. Dĩ nhiên, đối tượng gây ô nhiễm có động cơ tìm những cách thức, có thể hợp pháp hay bằng những cách nào khác, để cắt giảm hóa đơn tiền thuế của họ. Một trong nhiều cách là gây ảnh hưởng đến quá trình quan trắc để sao cho lượng chất thải báo cáo được giảm xuống. Một khi đã nhận hóa đơn thuế, họ có thể tranh cãi nếu như các hóa đơn thuế có vẻ như dựa trên dữ liệu không chắc chắn hoặc có những Barry Field & Nancy Olewiler 12
  3. yếu điểm kỹ thuật khác. Khi bị phạt do không đạt tiêu chuẩn, các công ty cũng có thể có hành động tương tự. Các loại thuế khác Cho tới giờ chúng ta chỉ thảo luận xung quanh một loại thuế: thuế phát thải. Bởi vì việc xả chất thải trực tiếp gây ô nhiễm môi trường, thuế đánh trên chất thải có lẽ là đòn bẩy lớn nhất có thể làm thay đổi động cơ của đối tượng gây ô nhiễm. Nhưng thông thường việc đánh thuế trực tiếp lên chất thải là không thể thực hiện được hoặc không phù hợp với thực tiễn. Trong trường hợp chúng ta không thể đo lường được hoặc giám sát các chất thải với một chi phí vừa phải, nếu ta áp dụng đánh thuế thì thuế này rõ ràng là phải được tính theo một cái gì đó khác. Một trường hợp minh họa dễ thấy là vấn đề ô nhiễm nước do nước thải chứa phân hóa học dùng trong nông nghiệp. Ta không thể đánh thuế đối với số kilogram nitơ trong nước thải bởi vì đó là loại chất ô nhiễm từ nguồn phát tán và như vậy ta không thể đo lường một cách trực tiếp được. Chúng ta vấp phải cùng vấn đề này đối với thuốc trừ sâu trong nông nghiệp. Thay vào đó có một khả năng khả dụng hơn là chúng ta đánh thuế lên số lượng phân bón người nông dân mua; có nghĩa là, thuế được đánh trên một tấn phân hóa học hay trên 100 kg thuốc trừ sâu được mua. Lúc này thuế phản ánh sự thật là một phần nhất định những vật liệu này sẽ được thải ra hệ thống sông ngòi gần đó. Bởi vì phải trả giá cao hơn, nông dân sẽ có động cơ sử dụng phân bón hoặc thuốc trừ sâu ít hơn. Giá cao hơn đồng thời cũng tạo ra động cơ sử dụng thuốc trừ sâu theo những cách sao cho ít tạo ra chất thải hơn; ví dụ như bằng cách giảm lượng nước thải. Ví dụ: đánh thuế rác thải Đánh thuế lên một thứ gì đó chứ không phải trực tiếp lên chất thải thường là một phương án “tốt nhất thứ hai” mà chúng ta cần áp dụng bởi vì không thể quan trắc chất thải một cách trực tiếp chính xác được. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta cần thận trọng đề phòng những trường hợp hiểu lầm khi người dân phản ứng lại thuế này, có những hiểu lầm có thể thực sự làm giảm ảnh hưởng của thuế hoặc đôi khi làm cho vấn đề liên quan càng tồi tệ hơn. Ví dụ nhiều cộng đồng ở Mỹ áp dụng biện pháp thu thuế rác thải từ hộ gia đình. Một phương pháp là bán nhãn dán cho cư dân và yêu cầu mỗi túi rác phải có một nhãn dán ở ngoài. Giá của các nhãn sẽ quyết định mức thuế, và ta thấy sẽ tương đối dễ dàng giám sát và cưỡng chế thi hành thông qua việc thu gom các túi rác ở vệ đường. Nhưng thuế đánh trên mỗi túi rác lại tạo ra động cơ khiến người dân nhét nhiều rác hơn vào mỗi túi, vì vậy mức cắt giảm tổng số lượng rác có thể nhỏ hơn so với số lượng túi rác được cắt giảm. Ví dụ: Đánh thuế khí thải xe ô tô Giả sử chúng ta đánh thuế phát thải Ôxít nitơ và Hiđrô cácbon từ xe ô tô. Thuế trên mỗi xe được quyết định bởi lượng khí thải trên mỗi kilômét, thường được quyết định thông qua kiểm định (do cơ quan môi trường Canada hoặc các nhà sản xuất ô tô thực hiện). Mục tiêu là tăng chi phí của những xe thải nhiều so với những xe thải ít, do đó tạo ra động lực cho người tiêu dùng chuyển qua mua xe phát thải ít. Thuế liên quan đến lượng phát thải trên mỗi kilômét tiêu chuẩn. Nhưng yếu tố chúng ta muốn kiểm soát là tổng lượng phát thải. Nhớ lại nội dung chương 1: Tổng lượng phát thải = Số lượng phương tiện số km di chuyển trung bình lượng phát thải trên mỗi km Barry Field & Nancy Olewiler 13
  4. Số kilômét di chuyển cũng là yếu tố quan trọng quyết định mức phát thải hàng năm như tỷ lệ phát thải của mỗi xe. Mặc dù người tiêu dùng có thể chuyển qua xe phát thải ít hơn nhưng rõ ràng họ không có động lực lái xe ít đi mỗi năm (có thể là đi ít hơn, chuyển chỗ ở gần nơi làm việc hơn v.v.). Do đó tổng lượng phát thải có thể giảm rất ít mặc dù đã đánh thuế phát thải từ xe ô tô. Điểm mấu chốt ở đây là thuế được đánh gián tiếp trên một thứ gì đó chứ không phải trực tiếp như mong muốn, do đó tạo ra ít động lực và tạo ra kết quả ít hơn so với khi đánh thuế trực tiếp lên tổng lượng phát thải.4 Tác động phân phối của thuế phát thải Thu thuế phát thải có hai tác động chính đến phân phối thu nhập và của cải: . Tác động lên giá và sản lượng hàng hóa và dịch vụ bị ảnh hưởng bởi thuế . Ảnh hưởng từ chi tiêu lấy từ ngân quỹ thuế. Chi phí của những cơ sở kinh doanh chịu thuế sẽ gia tăng do có thêm chi phí giảm ô nhiễm và chi phí trả tiền thuế. Đứng trên quan điểm của những cơ sở này, những chi phí này khiến chi phí sản xuất gia tăng, mà rất có thể họ sẽ chuyển sang cho người tiêu thụ gánh chịu như bất kỳ một chi phí sản xuất nào. Liệu họ có làm như vậy không và làm ở mức độ nào còn phụ thuộc vào những điều kiện cạnh tranh và điều kiện nhu cầu. Nếu áp dụng thuế đối với một công ty hay một nhóm các công ty trong một ngành công nghiệp cạnh tranh, thì công ty không thể đẩy giá của mình vượt quá mức giá chung của ngành công nghiệp này, và vì vậy sẽ phải chịu chi phí gia tăng. Trong trường hợp này, người chủ công ty và người làm công là những người chịu hoàn toàn tác động của thuế. Nhiều công ty lo sợ hay giả vờ lo sợ bị ở trong tình trạng này và vì vậy đã lên tiếng công khai phản đối phương pháp đánh thuế. Nếu như áp dụng thuế đối với toàn bộ ngành công nghiệp, giá sẽ tăng và người tiêu dùng sẽ gánh chịu một phần gánh nặng chi phí. Giá sẽ tăng lên bao nhiêu phụ thuộc vào các điều kiện của đường cầu. Sự tăng giá thường được xem là sự thụt lùi bởi vì, với bất kỳ một mặt hàng nào, giá tăng sẽ ảnh hưởng tới người nghèo nhiều hơn so với những người có thu nhập cao. Đối với hàng hóa mà cả người nghèo và người giàu đều tiêu thụ, ví dụ như điện, thì kết luận trên là rõ ràng không cần phải bàn. Tuy nhiên khi giá tăng đối với những hàng hóa chủ yếu do người giàu tiêu thụ (ví dụ đi lại bằng hàng không) thì gánh nặng chủ yếu đổ lên vai họ. Gánh nặng đối với người lao động có liên quan chặt chẽ đến mức sản lượng của công ty bị đánh thuế. Ở đây ta lại thấy mức độ ảnh hưởng đối với sản phẩm phụ thuộc vào các điều kiện cạnh tranh và đặc điểm của nhu cầu hàng hóa. Nếu áp dụng chương trình thuế phát thải cho duy nhất một hãng trong một ngành công nghiệp cạnh tranh hoặc nếu nhu cầu sản lượng sản phẩm của ngành công nghiệp là tương đối nhạy cảm đối với giá, điều chỉnh về sản lượng sẽ là tương đối lớn và nhiều công nhân có thể sẽ bị sa thải. Khi đó gánh nặng trong dài hạn sẽ tùy thuộc vào việc liệu có thể tìm được những nguồn công việc tốt khác hay không. Mặc dù gánh nặng do thay đổi giá và sản lượng là thực tế, chúng ta cần nhớ rằng chương trình thuế tạo ra những lợi ích đáng kể dưới dạng giảm thiệt hại môi trường. Để biết một 4 Xem thêm phần thảo luận rất thú vị về vấn đề tương tự khi áp dụng các quy định công nghệ trong Robert Crandall, “Policy Watch: Corporate Average Fuel Economy Standard,” Journal of Economics Perspective 6 (Spring 1992): 171 – 180 Barry Field & Nancy Olewiler 14
  5. chương trình có ảnh hưởng như thế nào đối với một nhóm đối tượng cụ thể chúng ta cũng cần phải lưu ý đến xem những lợi ích này được phân bổ như thế nào. Thuế phát thải còn bao gồm cả việc có những khoản tiền đáng kể chuyển từ người tiêu thụ hàng hóa do ngành công nghiệp bị đánh thuế sản xuất sang những người được hưởng lợi từ những nguồn quỹ thu được từ thuế, cho dù họ là ai. Những nguồn quỹ này có thể được sử dụng vào rất nhiều mục đích; sử dụng như thế nào sẽ quyết định tác động của chúng. Ví dụ như chúng có thể được phân phối cho những người có thu nhập thấp để bù đắp cho những ảnh hưởng do giá gia tăng. Thậm chí có thể trả lại một phần thuế cho những công ty đã trả tiền thuế phát thải. Điều này đã được thực hiện tại một số quốc gia Châu Âu để giúp tài trợ mua công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Miễn là chừng nào tiền trả lại không thực sự làm giảm thấp mức thuế phát thải biên, tác động khuyến khích của thuế phát thải sẽ không bị ảnh hưởng. Hoặc một cách khác, có thể dùng thuế để trang trải cho những sáng kiến môi trường trong những hoạt động chung. Thậm chí có thể dùng thuế này để giảm thâm hụt ngân sách, lúc này những người được hưởng lợi chính là những người dân đóng thuế nói chung. Lựa chọn đưa doanh thu thuế quay trở lại vào nền kinh tế tạo ra một vấn đề chính sách rất quan trọng. Thuế phát thải chúng ta thảo luận trong phần này được thiết kế nhằm khuyến khích những nguồn gây ô nhiễm sử dụng các nguồn lực môi trường một cách tiết kiệm hơn. Bản chất của thuế là nhằm sửa chữa các cách thức sử dụng nguồn lực sai lầm như khi tài nguyên môi trường thường được sử dụng như những nhập lượng miễn phí. Một đặc điểm khác của thuế phát thải cũng cần được nhấn mạnh đó là nó còn là nguồn thu của chính phủ, qua đó ta thấy chính phủ còn một khả năng là thay thế một số loại thuế nhất định vốn có ảnh hưởng bóp méo đối với nền kinh tế bằng thuế phát thải, được thiết kế nhằm giảm việc sử dụng nguồn lực sai lệch. Ví dụ như, nhiều quốc gia có thuế thu nhập, đánh lên các công ty và người lao động nhằm cung cấp ngân quỹ để dùng cho nhiều mục đích đa dạng khác nhau, ví dụ như bảo hiểm xã hội. Những thuế này khiến giá nhân công đắt hơn, và vì vậy khiến số nhân công được thuê mướn giảm – nghĩa là công ăn việc làm đã bị cắt giảm. Nếu chúng ta thay thế thuế này hoàn toàn hay một phần bằng thuế phát thải, sẽ có những ảnh hưởng mong muốn lên cả thị trường lao động và trong việc giảm ngoại tác môi trường. Khái niệm sử dụng doanh thu thuế môi trường để làm giảm tác động bóp méo của các loại thuế khác được gọi là chuyển thuế môi trường. Chúng ta sẽ thảo luận khái niệm này kỹ hơn trong phần 5. TRỢ CẤP GIẢM Ô NHIỄM Phương thức vận hành của thuế phát thải là đặt một mức giá cho tài sản môi trường mà chất thải đang được xả vào. Thực chất là chúng ta cũng thu được những tác động khuyến khích tương tự nếu thay vì là thuế, chúng ta trợ cấp cho phát thải. Theo phương pháp này, nhà chức trách sẽ trả cho đối tượng gây ô nhiễm một khoản tiền nhất định cho mỗi tấn chất thải giảm được, bắt đầu từ một mức phát thải chuẩn nhất định. Tiền trợ cấp có vai trò làm phần thưởng cho việc cắt giảm chất thải. Nói theo thuật ngữ chuyên môn, nó đóng vai trò là chi phí cơ hội: khi đối tượng gây ô nhiễm quyết định xả ra một đơn vị chất thải, thì thật sự là công ty này đang từ bỏ một khoản tiền trợ cấp có thể nhận được nếu như chọn giữ lại đơn vị chất thải đó. Dùng những số liệu trong hình 12-1, bảng 12-1 cho thấy nguyên tắc hoạt động của phương pháp này. Nhà chức trách trả một khoản trợ cấp cho mỗi đơn vị chất thải giảm được, bắt đầu từ một mức phát thải gốc. Chúng ta giả sử mức phát thải gốc của công ty là mức phát thải trước khi có bất cứ chính sách can thiệp nào: 50 tấn/tháng. Với mỗi tấn chất thải giảm được so với mức phát thải gốc của mình, công ty sẽ nhận được Barry Field & Nancy Olewiler 15
  6. 100$. Cột thứ tư cho thấy tổng doanh thu tiền trợ cấp và cột cuối cùng thể hiện tổng trợ cấp trừ cho tổng chi phí giảm ô nhiễm. Doanh thu ròng đạt mức cao nhất tại mức 25 tấn/tháng, cùng một mức cắt giảm công ty lựa chọn khi thuế suất là 100$. Nói một cách khác, động cơ khuyến khích cho đối tượng phát thải cũng tương tự như trường hợp thuế. Bảng 12-1: Trợ cấp giảm ô nhiễm Chất thải Chi phí giảm ô Tổng chi phí Tổng trợ cấp tại Tổng trợ cấp (tấn/tháng) nhiễm biên giảm ô nhiễm mức 120$/tấn trừ tổng chi phí giảm ô nhiễm 50 0 0 0 0 45 20 50 500 450 40 40 200 1.000 800 35 60 450 1.500 1.050 30 80 800 2.000 1.200 25 100 1.250 2.500 1.250 20 120 1.800 3.000 1.200 15 140 2.450 3.500 1.050 10 160 3.200 4.000 800 5 180 4.050 4.500 450 0 200 5.000 5.000 0 Nhiều điểm mà chúng ta đã nêu ở trước về thuế phát thải cũng áp dụng cho trợ cấp giảm ô nhiễm. Công việc quan trắc chất thải cơ bản cũng như nhau. Không nghi ngờ gì chúng ta cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập mức phát thải gốc để đo đạc lượng chất thải được cắt giảm. Mỗi nguồn ô nhiễm đều mong muốn mức phát thải gốc của họ được đặt càng cao càng tốt. Động cơ sai lầm có thể xuất hiện trong giai đoạn lập kế hoạch bởi vì các đối tượng gây ô nhiễm có thể sẽ cố nâng cao lượng phát thải của mình với hy vọng nâng cao mức phát thải gốc của họ. Tuy nhiên, còn một vấn đề nữa với trợ cấp mà không thấy xảy ra với thuế. Để có thể trả trợ cấp cho người gây ô nhiễm, chính phủ bằng một cách nào đó phải tạo nguồn thu. Nguồn thu cho trợ cấp này có thể làm thâm hụt ngân sách, hoặc thông qua thuế thu nhập cao hơn v.v. Nếu không thể tạo nguồn thu, chính phủ còn có hai lựa chọn nữa. Họ có thể cắt giảm chi tiêu ở những chương trình khác hoặc bỏ nguồn thu nếu trợ cấp được thực hiện dưới dạng khấu trừ thuế (chẳng hạn đầu tư vào công nghệ giảm ô nhiễm). Trong các tình huống này, dường như sẽ có những tác động không mong muốn đến nền kinh tế. Với tình hình tài chính khó khăn ở hầu hết các nền kinh tế, trợ cấp nói chúng không phải là chính sách môi trường có thể thực hiện được, trừ một số trường hợp đặc biệt. Một khó khăn nữa khi áp dụng chính sách trợ cấp là tác động của nó lên tổng mức phát thải của một ngành công nghiệp. Mặc dù trợ cấp giảm ô nhiễm này tạo ra cùng một động cơ khuyến khích cho mỗi nguồn gây ô nhiễm, nhưng tổng lượng phát thải có thể sẽ gia tăng. Để hiểu tại sao, để ý đến sự khác biệt giữa tình hình tài chính của công ty khi phát thải 25 tấn trong hai chương trình khác nhau: với chương trình thuế, tổng chi phí là 3.750$ trong khi với chương trình trợ cấp công ty này có tổng doanh thu là 1.250$. Như vậy tình hình tài chính của công ty trong hai trường hợp hoàn toàn khác nhau. Thực sự, công ty sẽ thu được lợi nhuận cao hơn sau khi áp dụng chương trình trợ cấp, và điều này có thể tác động thu hút thêm các công ty mới tiềm năng tham gia vào ngành công nghiệp này. Nói cách khác, có khả năng số lượng chất thải của từng công ty giảm nhưng số lượng các công ty trong ngành công nghiệp sẽ gia tăng, do đó tổng lượng chất thải gia tăng. Đặc tính này là một hạn chế của những chương trình trợ cấp đơn giản như vậy. Barry Field & Nancy Olewiler 16
  7. Hệ thống ký quỹ - hoàn trả Chương trình trợ cấp có lẽ thực tế hơn khi được vận dụng vào trong hệ thống ký quỹ - hoàn trả. Một hệ thống ký quỹ - hoàn trả thực chất là sự kết hợp giữa thuế và trợ cấp. Thuế là ký quỹ và trợ cấp là hoàn trả - một kiểu chương trình phạt và đền bù. Mục đích của trợ cấp là tạo ra động cơ cho người dân tự giác không vất bỏ đồ vật theo những cách gây thiệt hại đến môi trường. Đó là đền bù. Quỹ dùng để chi trả cho trợ cấp được lập ra bằng cách đánh thuế lên những đồ vật này khi người tiêu dùng mua chúng. Trong trường hợp này, mục đích của thuế không nhất thiết là để khuyến khích người dân cắt giảm mức tiêu thụ món hàng đó, mà để thu tiền cho chương trình trợ cấp. Nếu người dân không trả lại đồ vật và lấy lại tiền ký quỹ, lúc này có thể xem thuế như là phí rác thải. Hệ thống ký quỹ - hoàn trả đặc biệt phù hợp trong những tình huống khi sản phẩm có đặc tính phân tán khắp mọi nơi khi mua và sử dụng, và trong tình huống khi nhà chức trách khó hoặc không thể giám sát được việc vất bỏ chất thải. Tại Canada, một số tiểu bang bao gồm British Columbia, Alberta và Saskatchewan, đã thông qua các hệ thống ký quỹ - hoàn trả đối với các loại lon nước giải khát, vừa để cắt giảm việc xả rác và vừa để khuyến khích tái chế. Phương pháp này cũng đã được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu. Có thể dùng phương pháp này xử lý rất hiệu quả đối với nhiều sản phẩm khác. Trong những năm cuối thập niên 1960, nước Đức thiết lập một hệ thống ký quỹ - hoàn trả đối với dầu nhớt thải. Mỗi năm số lượng dầu thải ra không đúng quy cách là rất lớn, gây nguy hiểm cho nguồn tài nguyên đất đai, không khí và nước. Theo hệ thống ký quỹ - hoàn trả của Đức, dầu nhớt mới sẽ phải chịu một khoản thuế, tiền thu được sẽ đưa vào một quỹ đặt biệt (ký quỹ). Quỹ này sau đó sẽ được sử dụng nhằm trợ cấp cho hệ thống thu hồi và tái chế dầu thải (hoàn trả). Các quy định của chương trình trợ cấp được thiết lập nhằm khuyến khích cạnh tranh trong việc thu hồi/tái chế dầu nhớt thải và tạo ra động cơ khuyến khích người sử dụng giảm bớt mức độ ô nhiễm dầu nhớt trong khi sử dụng. Tại Thụy Điển và Na Uy, hệ thống ký quỹ - hoàn trả đã được thiết lập và áp dụng cho ô tô. Những người mua ô tô phải trả một khoản tiền ký gởi tại thời điểm mua xe, khoản tiền này sẽ được hoàn trả khi và nếu chiếc xe được giao lại cho một cơ sở buôn bán đồ đồng nát có giấy phép. Kinh nghiệm với hệ thống này cho thấy thành công không chỉ phụ thuộc vào món tiền ký quỹ lớn hay nhỏ. Ví dụ, điều thiết yếu là hệ thống thu gom phải được thiết kế sao cho tương đối tiện lợi cho người tiêu dùng. Hệ thống ký quỹ - hoàn trả còn thích hợp đối với những món hàng khác như những sản phẩm có chứa các chất độc hại, ví dụ như pin có chất cadmium (Cd) và bình ắc quy của xe ô tô. Vỏ bánh xe ô tô cũng có thể được xử lý bằng cách này. Có thể điều chỉnh hệ thống ký quỹ - hoàn trả cho phù hợp với những chất ô nhiễm công nghiệp truyền thống. Ví dụ như người sử dụng dạng nhiên liệu hóa thạch có thể đóng tiền ký quỹ cho hàm lượng lưu huỳnh chứa trong nhiên liệu họ mua; sau đó họ sẽ được hoàn trả lại tiền khi chất lưu huỳnh này được thu hồi lại từ khói xả. Như vậy có nghĩa là họ sẽ mất khoản tiền ký quỹ chỉ khi nào họ để cho khí lưu huỳnh này thoát ra khỏi ống khói của mình. Chúng ta sẽ thấy thêm nhiều ví dụ trong phần 5. Barry Field & Nancy Olewiler 17