Lý thuyết kinh tế vĩ mô kể từ Keynes và những hàm ý cho tầm nhìn chính sách ở Việt Nam

Bài viết này tóm lược sự phát triển nội dung tư tưởng chính của các trường phái
Kinh tế vĩ mô kể từ Keynes tới nay, lồng trong bối cảnh kinh tế-xã hội mà các tư
tưởng đó hình thành. Các nhóm tư tưởng bao gồm: (1) Tư tưởng của John Maynard
Keynes, (2) trường phái Hậu Keynes (Post Keynesian), (3) Trường phái Tổng hợp
Tân cổ điển-Keynes, (4) Trường phái trọng tiền, (5) Trường phái Cổ điển mới, (6)
trường phái Áo, (7) trường phái Keynes mới (New Keynesian), (8) trường phái trọng
cung (supply-side), và (9) lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tân cổ điển. Bài viết thảo
luận sự khác biệt giữa các tư tưởng và công cụ chính sách của các trường phái, với sự
nhấn mạnh đến bối cảnh sử dụng chính sách. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra những gợi
ý cho thực tiễn xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô ở Việt Nam trong hoàn cảnh hiện
nay. 
pdf 21 trang hoanghoa 07/11/2022 6280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lý thuyết kinh tế vĩ mô kể từ Keynes và những hàm ý cho tầm nhìn chính sách ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfly_thuyet_kinh_te_vi_mo_ke_tu_keynes_va_nhung_ham_y_cho_tam.pdf

Nội dung text: Lý thuyết kinh tế vĩ mô kể từ Keynes và những hàm ý cho tầm nhìn chính sách ở Việt Nam

  1. dùng chính sách kích thích kiểu Keynes để đẩy nền kinh tế tới toàn dụng nhân công trong một thời gian dài. Thường thì cái giá phải trả cho chính sách kích thích thích như thế là lạm phát. Và nếu cứ theo đuổi mong muốn giảm thiểu thất nghiệp, nền kinh tế sẽ rơi vào cảnh lạm phát triền miên. Và nguy hiểm hơn nữa, khi lạm phát đã thành kinh niên, thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ trở nên ổn định như khi không có chính sách can thiệp, vì tất cả cùng chia sẻ một mức kỳ vọng về lạm phát, và cùng đòi hỏi tăng giá theo cùng một mức đó. Lúc này, tiền tệ chỉ còn mang tính hình thức. Nói tóm lại, Phelps và Friedman cho rằng cần thừa nhận và chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp “tự nhiên” trong nền kinh tế, các chính sách không nên cố cưỡng bức nền kinh tế giảm mức thất nghiệp xuống dưới mức này thông qua các chính sách kích thích, vì kết quả sẽ chỉ là lạm phát triền miên mà thôi. Trường phái Cổ điển mới Thế hệ tiếp theo Friedman và Stigler, với những đại diện xuất sắc như Thomas Sargent và Robert Lucas, ứng dụng những thành tựu mới trong toán học về khái niệm kỳ vọng duy lý, tiếp tục phát triển lý thuyết về ảnh hưởng của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế. Với sự trở lại những giá trị của tư tưởng kinh tế cổ điển, được bồi đắp bởi những kỹ thuật mới, phái này tự gọi là Cổ điển mới. Bối cảnh cho sự trỗi dạy của phái Cổ điển mới là vào đầu thập niên 1970, khi những cuộc khủng hoảng mới diễn ra với hiện tượng trái ngược với những nguyên lý của Keynes, đó là thất nghiệp tăng cao đi cùng lạm phát. Phương thuốc truyền thống kiểu Keynes tỏ ra vô hiệu. Ý tưởng chính sách quan trọng của phái Cổ điển mới là chia sẻ quan điểm về chính sách tiền tệ giống như phái Trọng tiền, tuy nhiên, phái này còn quan tâm tới vai trò của sự lan tỏa và phân phối thông tin trong nền kinh tế. Trong ngắn hạn, thông tin hay kỳ vọng về lạm phát là khác nhau giữa các nhóm, đặc biệt giữa giới lao động và giới chủ, do đó, họ sẽ phản ứng theo những độ trễ khác nhau. Và điều này giúp ích cho chính sách vĩ mô. Ví dụ, khi một chính sách có thể mang tới lạm phát, nhưng giới lao động chưa nhận ra điều này trong các tính toán và dự kiến của mình về tương lai, còn giới chủ thì có. Như thế, giới lao động có thể vui vẻ chấp nhận mức tiền lương danh nghĩa tăng thêm (để bù đắp lạm phát) và tăng năng suất như thể là mình được tăng lương thực tế trong một thời gian, khiến sản lượng tăng. Tuy nhiên, trong dài hạn, hoặc trong trường hợp tất cả cùng hiểu rõ chính sách sắp tới như thế nào, thì hiệu ứng như trên lên nền kinh tế không còn nữa. Một hàm ý quan trọng liên quan đến lý thuyết này là chính sách cần phải được đưa ra một cách bất ngờ, không theo nguyên 10
  2. tắc hay lời hứa có thể đoán trước được, vì như thế tất cả sẽ vô hiệu (do tất cả các tác nhân kinh tế đều có “kỳ vọng duy lý”, nghĩa là xác định được tương lai chính xác thông qua các thông tin hiện có, mà nếu không có thông tin gì mới xuất hiện giữa hiện tại và tương lai, thì tương lai sẽ hiện ra đúng như kỳ vọng). Trong thuật ngữ, thì kỹ thuật ra chính sách một cách bất ngờ, giống như trong một cuộc chơi hay đấu trí mà nhà nước dành chủ động về thông tin, được gọi là “bất nhất theo thời gian” (time inconsistency). Trường phái Áo Trường phái Áo có truyền thống lâu dài ở Châu Âu với nhà sáng lập Carl Menger, qua các thế hệ của Stanley Jevon, Bohm Bawerk, Wicksell và sang thế kỷ XX, trước sự bành trướng của chủ nghĩa Keynes, và đặc biệt là ý thức hệ toàn trị của Đức Quốc Xã và tiếp đó là Nga Sô viết, truyền thống tự do Áo đã trỗi dậy mãnh liệt dưới sự dẫn dắt của von Mises, một nhà biện thuyết lỗi lạc, và đặc biệt là người kế tục xuất sắc Friedrich von Hayek. Trường phái Áo đề cao sự tự do cá nhân, các quyền cá nhân trong hoạt động kinh tế và tư tưởng. Những đóng góp quan trọng của trường phái này là duy trì ý thức tự do cổ điển dưới mưa gió của những ý thức hệ tập thể và duy nhà nước trong thế kỷ XX. Về lý luận kinh tế, đóng góp rất quan trọng của Hayek về “phân hữu trí thức” (division of knowledge) được xem như một thành tựu hiện đại, phiên bản mới của lý luận “phân công lao động” (division of labor) của Adam Smith. Qua lý thuyết này, Hayek chứng minh tầm quan trọng của các cá nhân trong xã hội. Mỗi cá nhân tích lũy một tri thức riêng về cuộc sống và thế giới, do hoàn cảnh khác nhau tích tụ nên đời sống của họ, vì vậy, họ có những đóng góp rất khác nhau cho xã hội, mà một tri thức tập trung không bao giờ có được. Nhờ có tri thức phân tán trong xã hội mênh mông, và nhờ có thị trường để kết nối họ lại với nhau, mà nền kinh tế sản sinh ra những tri thức hiệu quả hơn bất cứ một hệ thống nào con người từng biết tới. Ví dụ, trong hệ thống tập trung và mệnh lệnh, không thể đưa ra những sáng tạo vì quá trình phân hữu tri thức bị phá hủy, tất cả phải suy nghĩ theo mệnh lệnh hoặc được coi là suy nghĩ như vậy, và tri thức cá nhân không phát huy được sức mạnh. Nền văn minh hiện đại bị phá hủy do không còn phân hữu tri thức, cũng như kinh tế thị trường bị tiêu diệt nếu không còn phân công lao động. Về chính sách kinh tế, trường phái Áo lập luận chống lại sự can thiệp của nhà nước vì những tác động lan truyền gây méo mó của chúng, vì các chính sách thường không thể xem xét hết được những ảnh hưởng phụ và phát sinh theo thời gian. Đây cũng là điểm yếu chung của tri thức tập trung: nó luôn ít thông tin và kém sáng suốt hơn sự tổng hợp vô vàn tri thức 11
  3. phân tán. Ví dụ, chính sách hạ thấp lãi suất để kích thích kinh tế có thể gây méo mó vì nhà sản xuất sẽ đầu tư nhiều hơn vào các quá trình sản xuất có vòng đời dài hơn. Lập luận này dựa trên truyền thống lý thuyết về tư bản đặc trưng trường phái Áo, xuất phát từ Bohm Bawerk, cho rằng tư bản được sử dụng theo những phương pháp, giai đoạn dài ngắn khác nhau cho từng chu trình sản xuất, và dựa trên các tín hiệu giá cả thị trường, trong đó có lãi suất là giá sử dụng tư bản, sẽ quyết định chu trình sản xuất tối ưu cho nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc can thiệp vào tín hiệu lãi suất khiến thông tin bị bóp méo, làm đảo lộn các chu trình sản xuất, và vì thế nguồn lực sẽ bị phân bổ không hợp lý, tạo nên cơ cấu lệch lạc của toàn bộ nền kinh tế. Trường phái Keynes Mới (New Keynesian) Trường phái Keynes Mới quy tụ những nhà kinh tế có tên tuổi như Joseph Stiglitz, Oliver Blanchard, Stanley Fisher, George Akerlof, Assar Lindbeck, Robert Barro, G. Mankiw, v.v Xét về đóng góp học thuật, phái này không duy trì mối quan tâm về lý luận rộng lớn như bản thân Keynes và những người Hậu Keynes, mà tập trung nhiều vào giải quyết những vấn đề liên quan đến giả thuyết giá cả cứng nhắc của Keynes. Phái này đã dành nhiều công sức để xây dựng nên tảng vi mô cho các giả thuyết này. Bên cạnh việc chấp nhận nhiều khái niệm cơ bản của phái Tân cổ điển, phái Keynes Mới có khuynh hướng hấp thu giả thuyết kỳ vọng duy lý của các nhà Cổ điển Mới. Để giải quyết vấn đề giá cả cứng nhắc, phái Keynes Mới đã ứng dụng những thành tựu mới nhất trong kinh tế học vi mô như lý thuyết về thị trường không hoàn hảo, thông tin không hoàn hảo hoặc những đặc điểm thể chế trên thị trường lao động như ảnh hưởng của nghiệp đoàn. Về mặt chính sách, dựa trên niềm tin về giá cả cứng nhắc, phái Keynes mới ủng hộ chính sách tiền tệ nhiều hơn so với chính sách tài khóa. Lý thuyết trọng cung (supply-side) Phái Trọng Cung (supply-side) trong kinh tế vĩ mô chủ yếu hướng đến việc hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách tác động tới khu vực doanh nghiệp, chủ yếu thông qua cắt giảm thuế. Chính sách này sẽ được áp dụng mạnh mẽ ở Mỹ trong thời kỳ Reagan. Điểm đặc thù thú vị của phái trọng cung là đề xuất kết hợp chính sách (tiền tệ và tài khóa) trái ngược với truyền thống Keynes. Nhân vật có đóng góp xây dựng nền tảng cho hệ lý thuyết này là Robert Mundell với các công trình vào đầu thập niên 1960 (Mundell 1960, 12
  4. 1962). Tiếp đó, năm 1971, Mundell đề xuất một kết hợp chính sách đặc biệt: nới lỏng tài khóa để giải phóng sản xuất đi liền với thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Đề xuất này của Mundell cho đến nay vẫn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Về khía cạnh nới lỏng tài khóa, kinh tế học Trọng Cung cổ vũ việc giảm thuế để kích thích sản xuất. Ngoài thuế trong sản xuất, phái này cũng ủng hộ việc giảm thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là ở những người có thu nhập cao, để tăng động lực làm việc và tích lũy trong xã hội. Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tân cổ điển Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tân cổ điển là một nhánh đặc biệt trong kinh tế vĩ mô, vì nó tách khỏi truyền thống xem xét nguyên nhân tiền tệ của các thăng trầm kinh tế. Lưu ý rằng các lý thuyết quan trọng nhất về chu kỳ kinh doanh hay các dao động kinh tế vĩ mô chủ yếu liên quan đến vai trò gây xáo trộn của tiền tệ trong nền kinh tế. Tuy nhiên, phái lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực loại bỏ khỏi phân tích của mình vai trò của tiền tệ, mà chỉ chú tâm tới những biến động “thực” của nền kinh tế như năng suất biên của vốn và lao động, những biến động về công nghệ hay sự kiện xã hội lớn như chiến tranh. Phái này được gọi là “tân cổ điển” vì sử dụng giả thuyết các thị trường đều trong trạng thái cân bằng. Lý thuyết này bắt đầu nổi lên từ đầu thập niên 1980 nhờ đóng góp quan trọng của cặp bài trùng Finn Kydland và Edward Prescott. Tiếp đó, các nhân vật khác dần tham gia vào phái này như John Long, Charles Plosser, Robert King và Sergio Rebelo, v.v Với nền tảng lý luận như vậy, hàm ý chính sách của phái chu kỳ kinh doanh thực chủ yếu tập trung vào các vấn đề cơ cấu phục vụ quá trình sản xuất thực. Phái này kêu gọi sự hạn chế can thiệp vào nền kinh tế thông qua các công cụ ngắn hạn, tức thời như tài khóa hay tiền tệ, vì sẽ khiến các tín hiệu thị trường trở nên khó nhận biết hơn hoặc vô tình tạo ra những cú sốc trong quá trình sản xuất, khiến các quyết định tối ưu hóa bị đảo lộn, dẫn nền kinh tế tới những dao động bất thường (không tự nhiên). Bản chất của các chính sách kinh tế vĩ mô Việc xem xét lại một cách rất nhanh và sơ lược các lý thuyết vĩ mô chính xuất hiện từ sau Keynes cho thấy mối quan tâm và công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô dịch chuyển theo thời gian, nhưng về cơ bản vẫn để nhằm giải quyết những dao động ngắn hạn của nền kinh tế thông qua các đại lượng vĩ mô quan trọng (thất nghiệp, lạm phát, tăng trưởng, v.v ). Những dao động này được cho là đến từ rất nhiều nguồn, tuy nhiên, phương pháp để can thiệp vào 13
  5. nền kinh tế thường chỉ xoay quanh các công cụ tài khóa và tiền tệ, vì đây là những công cụ chính phủ có thể sử dụng trong quyền lực của mình, trong một thời gian đủ ngắn để ứng phó với những gì đang diễn ra. Nhìn vào cuộc tranh luận trong các chính sách vĩ mô suốt gần một thế kỷ qua, chúng ta thấy có hai tuyến nội dung chính. Thứ nhất là vai trò của chính phủ và ý nghĩa của các chính sách, thứ hai là cách thức sử dụng các chính sách đó. Chẳng hạn, những người theo Keynes tin tưởng vào việc kết hợp cả hai chính sách tiền tệ và tài khóa để điều tiết nền kinh tế, nhưng những người theo phái trọng tiền lại cho rằng chỉ chính sách tiền tệ là có nhiều tác dụng, nhưng đa phần sự can thiệp là sai lầm hoặc chậm chễ, có thể gây ra những hậu quả trầm trọng. Trường phái Áo tin rằng các nhà chính sách không sáng suốt bằng thị trường, do đó, các chính sách can thiệp thực tế chỉ là đổ thêm dầu vào lửa. Trong khi đó, những người theo chu kỳ kinh doanh thực lại cho rằng các chính sách tiền tệ không có nhiều ý nghĩa, vì nền kinh tế tự nó trải qua những biến thiên xuất phát từ sự thay đổi trong năng suất và cách tổ chức quá trình sản xuất thực. Trọng tâm thứ hai liên quan đến kỹ thuật điều hành chính sách. Cống hiến quan trọng của phái Cổ điển Mới trong việc kéo chính sách kinh tế trở lại vị trí khiêm tốn hơn của nó, và cảnh báo rằng các chính sách chỉ có tác động trong ngắn hạn mà thôi. Trước đó, những người theo Keynes đã lạc quan tin rằng một kỷ nguyên của chính sách kinh tế đã tới, ở đó mọi bất ổn kinh tế đều có thể giải quyết thông qua sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên, nếu lùi ra xa khỏi các cuộc tranh luận để nhìn vào những điểm cốt yếu, chúng ta vẫn thấy những vấn đề lớn nhất, bao quát nhất của chính sách kinh tế vĩ mô đã được đặt ra ở Keynes. Cống hiến quan trọng của Keynes về tính chất khác nhau trong hành vi của các thành phần khác nhau trong tổng cầu, tầm quan trọng của kỳ vọng về tương lai, tất cả là chất liệu quý giá cho việc hình thành chính sách vĩ mô. Tuy nhiên, theo thời gian và sự bình dân hóa đồng thời là giản dị hóa các quan điểm cốt lõi, chỉ còn lại các kỹ thuật chính sách như nới lỏng hay thắt chặt tài khóa và tiền tệ, giống như trong mô hình IS-LM đơn giản. Người ta đôi khi đã bỏ qua những yếu tố không bao giờ được vẽ trên đồ thị, như các biện pháp khôi phục sự tin tưởng vào tương lai cho các tác nhân kinh tế, đặc biệt trong khu vực doanh nghiệp. Để có thể đạt được mục tiêu này, cần có một chiến lược bền bỉ cải thiện môi trường kinh doanh và cả các nguyên tắc hoạt động của chính phủ. Đây chính là những vấn đề cốt lõi của kinh tế vĩ mô, mà đôi khi đã bị quên lãng trong quá trình thực thi chính sách. 14
  6. Một giai thoại kể rằng Kalecki khi được yêu cầu phải nói vắn tắt trong vài phút về tư tưởng chính sách kinh tế của Keynes, ông đã kể một câu chuyện về một thị trấn nhỏ nghèo nàn, nhưng một ngày có một người khách tới và gửi lại trong quán rượu 500 USD. Ông chủ quán rượu sử dụng số tiền đó để mở rộng kinh doanh, dẫn tới những lan tỏa trong thị trấn. Sau nhiều năm trở lại, người khách nói với ông chủ quán rằng 500 USD ngày xưa là tiền giả. Giai thoại này khiến người nghe phải suy nghĩ nhiều, nhất là khi được kể ra bởi Kalecki, người đôi khi được coi là đồng sáng lập học thuyết Keynes. Hàm ý của câu chuyện cho thấy, bản thân tiền tệ chỉ là một giá trị danh nghĩa. Nhưng điều quan trọng là nó có khả năng khiến các hoạt động kinh tế được kích hoạt và dẫn dắt nhau diễn ra theo một mắt xích, mà trong ngôn ngữ của Keynes là hiệu ứng số nhân. Do đó, có thể nói một đặc điểm quan trọng của chính sách can thiệp kinh tế là làm thế nào để thúc đẩy các hành vi kinh tế tự nó được tiếp tục diễn ra, và diễn ra thuận lợi, trong sự tin tưởng vào tương lai. Nếu các chính sách can thiệp vi phạm nguyên lý này, thì thực chất đó chỉ là những chính sách can thiệp kém hiệu quả, dù được trang bị bằng những học thuyết phức tạp nhất. Một số lưu ý về chính sách vĩ mô ở Việt Nam Một đặc điểm quan trọng của Việt Nam là chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường từ một nền kinh tế hậu chiến, tuân theo mệnh lệnh và kế hoạch hóa. Chính vì thế, khi chuyển đổi, Việt Nam thiếu rất nhiều kinh nghiệm trong điều hành kinh tế vĩ mô thông qua các chính sách kích thích động cơ của các chủ thế kinh tế. Theo thời gian, tính thị trường của nền kinh tế càng phát triển, thì vai trò nhận thức nền kinh tế càng trở nên cấp thiết. Xét trên lĩnh vực chính sách kinh tế, mặc dù không có sự đồng thuận rõ ràng nào về một trường phái kinh tế theo đúng nghĩa đen của cụm từ này nằm sau các chính sách của Việt Nam trong 20 năm qua, nhưng dường như đã có một dạng thô sơ của chủ nghĩa Keynes thấm nhuần trong các chính sách kinh tế của Việt Nam trong suốt thời kỳ này. Có hai lý do cho thực tế này. Thứ nhất, những nhà chính sách có ảnh hưởng lớn nhất trong giai đoạn đầu đều là những người được đào tạo trong thời kế hoạch hoá, do đó, họ tìm thấy ở kinh tế học trường phái Keynes một chỗ dựa khá thân quen và dễ chịu cho những gợi ý chính sách của mình. Từ kinh nghiệm cá nhân tác giả bài này, một số nhà tư vấn cao cấp thậm chí còn đồng nhất Keynes với những người xã hội chủ nghĩa và đối lập ông với Milton Friedman, người mà họ cho là một tư tưởng gia bảo vệ chủ nghĩa tư bản một cách điên 15
  7. cuồng. Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam, được đặc trưng bởi vai trò chi phối của nhà nước ngay từ những ngày đầu chuyển đổi (và cho đến tận bây giờ), đã trở thành một mảnh đất màu mỡ cho các loại chính sách can thiệp xuất hiện và tồn tại vững chắc. Hai nhân tố trên tự hỗ trợ và tự tái tạo lẫn nhau. Việc sử dụng quá nhiều và thường xuyên chính sách vĩ mô có thể trở thành một thói quen khó bỏ, hoặc tạo một ý thức rằng can thiệp là chuyện tất yếu. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng việc sử dụng một công cụ vĩ mô luôn đòi hỏi sự huy động nguồn lực lớn thông qua nhà nước (chẳng hạn chính sách mở rộng chi tiêu của chính phủ) hoặc sự bóp méo một số tín hiệu quan trọng nhất của thị trường (ví dụ tăng hay giảm lãi suất). Điều này thường giúp đạt được một số mục tiêu ngắn hạn, nhưng lại có thể gây ra những ảnh hưởng không có trong dự tính, hoặc không tính toán được. Một ví dụ là chính sách hỗ trợ lãi suất gần đây. Ngoài những mặt tích cực của chính sách này như yếu tố tâm lý và đáp ứng cho một bộ phân doanh nghiệp, thì việc cung ứng một nguồn vốn rẻ đã khiến cầu về vốn tăng cao, mà một phần được định hướng vào các thị trường có thanh khoản cao và khả năng sinh lời dễ nhìn thấy. Đó chính là các thị trường tài sản (chứng khoán, bất động sản, vàng và ngoại tệ). Điều này một mặt gây tăng bong bóng trên các thị trường tài sản, một mặt gây khan hiếm vốn nói chung trên thị trường. Việc khan hiếm vốn khiến lãi suất chịu sức ép tăng trở lại. Khi mặt bằng lãi suất tăng lên, thì các doanh nghiệp không được hỗ trợ lãi suất phải chịu mức lãi cao. Điều này tương đương với việc chính các doanh nghiệp không được hỗ trợ lãi suất đi hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc diện hỗ trợ lãi suất, mặc dù về mặt hình thức việc hỗ trợ do Nhà nước thực hiện. Một ví dụ khác liên quan đến chính sách tiền tệ. Do cấu trúc của nền kinh tế không đồng đều, khi một bộ phận gây ra sự tăng giá, chẳng hạn khu vực nhập khẩu do giảm giá đồng tiền Việt Nam, thì gây ảnh hưởng lên mức giá chung. Để chống nguy cơ tăng giá, chính phủ buộc phải thắt chặt tiền tệ. Như vậy, những doanh nghiệp không tham gia vào quá trình thương mại quốc tế phải chịu ảnh hưởng tiêu cực từ chính sách này. Một lưu ý nữa là các chính sách khi đã được thực hiện trên thực tế, nó có thể tác động tích cực hay tiêu cực khác nhau đến từng nhóm đối tượng, và cấu trúc hay vị trí tương đối của các nhóm này trong xã hội là khác nhau. Do dự phân phối quyền lực khác nhau, nhóm nhận ảnh hưởng tích cực có thể thành công trong việc duy trì chính sách ngay cả khi nó đã hoàn thành nhiệm vụ, hoặc ngược lại, nhóm bị ảnh hưởng tiêu cực có thể thành công trong việc loại bỏ chính sách này khi nó chưa phát huy được hiệu quả. Và điều này gây ra những biến 16
  8. thái hoặc méo mó trong đời sống kinh tế, đôi khi làm mầm mống cho những phát triển lệch lạc lâu dài về sau. Chúng tôi cho rằng trong tương lai, chúng ta cần có những thay đổi trong điều hành kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, chúng ta nên tránh lạm dụng những can thiệp lớn, vì những can thiệp này luôn làm các nguồn lực lớn dịch chuyển ở quy mô lớn, trong khi những tính toán và dự kiến về ảnh hưởng của chúng trong tương lai lại rất hạn chế. Để tránh phải tự buộc mình vào quá nhiều mục tiêu trong khi các công cụ chính sách là hữu hạn, Chính phủ cần ưu tiên đặt kế hoạch hoặc mục tiêu kiểm soát đối với một số ít biến vĩ mô quan trọng nhất mà Chính phủ thực sự có lợi thế trong việc thực hiện. Theo tôi có hai biến như vậy. Thứ nhất là tỷ lệ lạm phát hàng năm. Thứ hai là mức thâm hụt ngân sách. Hai mục tiêu này có thể được thực hiện thông qua hai công cụ là chính sách tiền tệ và kế hoạch tài khóa. Dựa trên hai kế hoạch và mục tiêu trên, chúng ta mới tính toán đến các mục tiêu thứ cấp khác. Cần lưu ý rằng tăng trưởng kinh tế là một biến quan trọng, nhưng thực tế việc kiểm soát nó không phải là lợi thế tương đối thật sự của Chính phủ. Nhưng Chính phủ có thể tính toán và ước lượng con số này một cách khách quan, trên cơ sở đó cung cấp thông tin cho chính sách đồng thời cho các tác nhân kinh tế. Quá trình tính toán có thể mang tính phản hồi (reflective) và trên cơ sở đó có thể điều chỉnh mục tiêu cho hai biến trên kia (lạm phát và thâm hụt ngân sách). Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần làm quen với ý thức rõ ràng rằng tăng trưởng kinh tế là một biến phụ thuộc nhiều vào các yếu tố của nền kinh tế hơn là những nỗ lực của Chính phủ. Một biến quan trọng khác có tính chất tương tự tăng trưởng kinh tế là cấu trúc của cán cân thanh toán. Tôi cho rằng trong số các tài khoản thuộc cán cân thanh toán, cần chú trọng đặc biệt tới dòng vốn đầu tư gián tiếp. Nhìn chung, cần có một chiến lược rõ ràng về điều tiết và kiểm soát các dòng vốn nói chung, mà cụ thể hơn cả là dòng vốn gián tiếp. Trên cơ sở cân đối các dòng vốn và luồng tiền trong cán cân vãng lai, Chính phủ lên kế hoạch điều chỉnh hay can thiệp trên thị trường ngoại hối, với một số mục tiêu nhất định cho giá trị đồng Việt Nam. Việc kiểm soát nhập siêu nên đặt trong tổng thể của tất cả các hoạt động chính sách nêu trên, vì nhập siêu bản chất là vấn đề cơ cấu kinh tế. Thêm vào đó, hiện chúng ta ngày càng thị trường hóa nền kinh tế sâu sắc hơn, cần phân biệt khu vực kinh tế của nhà nước, biểu hiện ra như khu vực quốc doanh, với các chính sách 17