Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Nội dung
• Phân tích lý thuyết về lợi thế so sánh và lợi
thế tuyệt đối, các xu hướng hạn chế thương
mại quốc tế
• Phân tích cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá
hối đoái
• Phân tích tác động của chính sách vĩ mô dưới
các hệ thống tỷ giá hối đoái khác nhau và vốn
luân chuyển hoàn hảo


 

pdf 30 trang hoanghoa 07/11/2022 5160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_8_kinh_te_vi_mo_cua_nen_kin.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

  1. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở Mối quan hệ giữa tài khoản vốn và lãi suất Cân đối tài khoản vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi. Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi suất ở n ước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện. Mối quan hệ giữa tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm đi, dòng vốn vào sẽ giảm trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện. 8.3.3. Lỗi và sai số thống kê Khoản mục này nếu có là do sự sai lệch về thống kê do nhầm lẫn, bỏ sót hoặc không thu thập được số liệu. Nguyên nhân là những ghi chép của những khoản thanh toán hoặc hoá đơn quốc tế được thực hiện vào những thời gian khác nhau, địa điểm khác nhau và có thể bằng những phương pháp khác nhau. Do vậy, những ghi chép này là cơ sở để xây dựng những thống kê của cán cân thanh toán quốc tế chắc chắn không hoàn hảo. Từ đó, dẫn đến những sai số thống kê. 8.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán quốc tế có thể rơi vào tình trạng bội thu hoặc bội chi. Tình trạng này không cố định theo thời gian mà luôn luôn thay đổi vị trí. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế đó là: Cán cân thương mại, lạm phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái, sự ổn định chính trị của đất nước, khả năng quản lý kinh tế của Chính phủ. 8.3.4.1. Cán cân thương mại Cán cân thương mại là yếu tố quan trọng quyết định đến vị trí của cán cân thanh toán mà cán cân thương mại lại phụ thuộc yếu tố tác động trực tiếp đến nó. Ví dụ như: • Thương mại hữu hình: Là một trong những hạng mục thường xuyên của cán cân thanh toán. Tùy theo trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, độ phong phú của tài nguyên thiên nhiên mà có một số quốc gia khác lại ở vào vị trí nhập siêu. • Thương mại vô hình: Chủ yếu là dịch vụ và du lịch. Có một số quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về vị trí địa lý, cảnh quan và khí hậu đã trở thành nơi thu hút khách du lịch của thế giới. Cán cân thương mại 221
  2. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở 8.3.4.2. Lạm phát Với điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu tỷ lệ lạm phát của một quốc gia cao hơn so với các nước khác có quan hệ mậu dịch, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa của nước này trên thị trường quốc tế do đó làm cho khối lượng xuất khẩu giảm. 8.3.4.3. Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân Tỷ giá hối đoái Nếu mức thu nhập của một quốc gia tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của quốc gia khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do lạm phát) tăng, mức tiêu thụ hàng hóa cũng tăng. 8.3.4.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái Nếu tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với tiền của quốc gia khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm, nếu các yếu tố khác bằng nhau. Khi đó, hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên đắt hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu hàng hóa đó giảm. 8.3.4.5. Sự ổn định chính trị của một đất nước, chính sách đối ngoại của quốc gia Sự ổn định chính trị của một đất nước là cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế, và là điều kiện tiên quyết để các quốc gia khác tăng cường quan hệ kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách đối ngoại trở thành điều kiện đủ cho mọi quan hệ kinh tế trực tiếp. Trong điều kiện mở cửa kinh tế và hội nhập, chính sách đối ngoại phù hợp sẽ là yếu tố mở đường cho mọi yếu tố khác phát triển. 8.3.4.6. Khả năng và trình độ quản lý kinh tế của Chính phủ Đây là yếu tố tạo sự phát triển bền vững và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Yếu tố này vừa mang tính thử nghiệm vừa đánh giá sự năng động trong điều hành nền kinh tế của Chính phủ trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại cũng sẽ đạt được. Do đó, cán cân thanh toán quốc tế sẽ được cải thiện theo chiều thuận. 8.3.5. Một số giải pháp duy trì cân bằng cán cân thanh toán Mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi quốc gia là đảm bảo cho cán cân thanh toán được cân bằng. Khi cán cân thanh toán bội thu hay bội chi thì các nước thường sử dụng các biện pháp để điều chỉnh. 222
  3. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở Khi cán cân bội thu, các nước thường sử dụng số bội thu đó để tăng cường đầu tư ra nước ngoài và bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Bội chi cán cân sẽ có tác động tiêu cực đến việc phát triển kinh tế của các quốc gia, quan hệ kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế − xã hội khác. Chúng ta có thể xem xét một số biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán khi bội chi như sau: • Giảm chi tiêu ngân sách nhà nước sẽ tác động đến tổng cầu do đó góp phần cải thiện cán cân thanh toán ngắn hạn. Giảm chi tiêu ngân sách nhà nước thường đi đôi với chính sách thắt chặt tiền tệ, thuế khóa như: Tăng lãi suất cho vay để giảm đầu tư, dùng công cụ thuế để hạn chế tiêu Cán cân thanh toán dùng nhất là hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng. • Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài có thể áp dụng các biện pháp sau: Nâng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút ngoại tệ từ nước ngoài vào; vay của nước ngoài và tìm kiếm nguồn viện trợ nhà nước; tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thủ tục dễ dàng, ưu đãi về thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. • Điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu tăng thu ngoại tệ đồng thời hạn chế nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ. NHTƯ dùng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng để điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. Nếu lãi suất tái chiết khấu tăng trong khi lãi suất của các nước trong khu vực vẫn giữ nguyên thì sẽ thu hút được lượng ngoại tệ lớn ở trong nước và ngoài nước vào ngân hàng, như vậy cung cầu ngoại tệ sẽ được cải thiện. Khi cần thiết NHTƯ hạ lãi suất tái chiết khấu sẽ mở rộng quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu Chính sách hối đoái tư, phát triển sản xuất đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài tăng thu ngoại tệ. Chính sách hối đoái là biện pháp tác động trực tiếp vào tỷ giá hối đoái nghĩa là NHTƯ hay cơ quan ngoại hối của nhà nước dùng các nghiệp vụ trực tiếp mua, bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá phù hợp với điều kiện của mình trong từng giai đoạn, phù hợp mục tiêu chính sách kinh tế đối ngoại. • Áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm kích thích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, tăng thu ngoại tệ bù đắp sự thiếu hụt, sử dụng hàng rào thuế quan hạn chế nhập khẩu. • Sử dụng quyền rút vốn đặc biệt SDR tại IMF. Khi một quốc gia là thành viên chính thức tại IMF thì quốc gia đó có thể sử dụng quyền rút vốn đặc biệt hoặc thực hiện xuất vàng để trang trải các khoản nợ nước ngoài. Một số giải pháp mang tính chiến lược: • Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ tùy thuộc vào điều kiện tài nguyên, trình độ phát triển khoa học công nghệ của quốc gia trong đó trình độ khoa học công nghệ giữ vị trí quyết định. 223
  4. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở • Có chính sách hợp lý và năng động để thu hút khách du lịch, kiều hối, xuất khẩu lao động, xuất khẩu công nghệ nhằm tăng thu ngoại tệ. • Quản lý thu chi ngoại tệ theo nguyên tắc tăng thu giảm chi ngoại tệ. • Đổi mới chính sách quản lý kinh tế đối ngoại để thu hút vốn đầu tư. • Nâng cao trình độ quản lý và điều hành kinh tế của Chính phủ và các cấp chính quyền. 8.4. Tỷ giá hối đoái 8.4.1. Tỷ giá hối đoái và các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Nói cách khác là tỷ giá mua bán (trao đổi) giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái được coi là một công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng hết sức quan trọng phục vụ cho chính sách thương mại của mỗi quốc gia sao cho có lợi nhất trong điều kiện thương mại quốc tế. Tỷ giá hối đoái là một vấn đề kinh tế, từ thế kỷ XV – XVII đã được các nhà tư tưởng trọng thương chủ nghĩa quan tâm bàn đến. Tuy nhiên, nó được nghiên cứu một cách có hệ thống đầy đủ và chi tiết trong các học thuyết hiện đại. Tỷ giá hối đoái được sử dụng như công cụ quản lý các hoạt động thương mại quốc tế của một nước, để đảm bảo cho nước đó tham gia thương mại một cách có lợi nhất. Thông thường có 2 xu hướng thay đổi tỷ giá hối đoái: • Một là, xu hướng phá giá tỷ giá hối đoái (nghĩa là làm giảm giá đồng tiền bản tệ). Xu hướng này thường được áp dụng để khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh và khuyến khích xuất khẩu. Thực hiện được hướng này, thì các nước phải nắm rõ tình hình diễn biến thương mại quốc tế, • Hai là, xu hướng tăng tỷ giá hối đoái nghĩa là tăng giá đồng bản tệ. Xu hướng này thường được áp dụng để khuyến khích nhập khẩu và tăng điều kiện cạnh tranh trong nước, hạn chế việc đầu tư sản xuất kinh doanh. Thông thường kèm theo chính sách này là chính sách thay đổi lãi suất theo hướng tăng lãi suất. Cách xác định tỷ giá hối đoái: Để tránh nhầm lẫn khi phân tích, chúng ta thường quy ước sử dụng ký hiệu sau: • Ký hiệu e là tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nước ngoài. (Hay tỷ giá hối đoái của đồng tiền ở thị trường ngoại hối của đồng tiền đó). • Ký hiệu E là tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ. (Hay tỷ giá hối đoái của đồng tiền có liên quan trong thị trường ngoại hối đang xem xét). Ví dụ: Ở Việt Nam nếu ta coi đồng nội tệ là VND, đồng ngoại tệ thường sử dụng là USD thì tỷ giá hối đoái của Tỷ giá hối đoái đồng ngoại tệ so với đồng nội tệ năm đầu năm 2009 là: USD 1 e == VND 17500 Và tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so với đồng nội tệ đầu năm 2009 là: 224
  5. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở VND 17500 E == =17500 USD 1 Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái: • Cán cân thương mại: Trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu của một nước tăng thì đường cung về tiền của nước đó sẽ dịch chuyển sang phía phải, và ngược lại nếu xuất khẩu của một nước tăng thì đường cầu tiền sẽ dịch chuyển sang phía phải (e tăng). • Tỷ lệ lạm phát tương đối: Nếu tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của một nước khác thì nước đó sẽ Nhân tố ảnh hưởng đến cần nhiều tiền hơn để mua một lượng tiền nhất định của tỷ giá hối đoái nước kia. Điều này làm cho đường cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống. • Sự vận động của tư bản: Khi người nước ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hưởng mạnh. Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với nước khác thì các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước ngoài muốn mua các tài sản đó. Điều này làm cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái của nó. Đây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá hối đoái ở các nước phát triển cao. • Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ: Tất cả đều có thể làm dịch chuyển các đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi hàng tỷ đôla giá trị tiền tệ mỗi ngày. Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây nên sự dịch chuyển các đường cung cầu trên thị trường ngoạ i hối. Sự dịch chuyển này đến lượt nó sẽ gây ra những dao động của tỷ giá hối đoái. Và như một phản ứng dây chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại tác động đến nền kinh tế trong nước. 8.4.2. Thị trường ngoại hối • Thị trường ngoại hối là nơi đồng tiền của quốc gia này được trao đổi với đồng tiền của quốc gia khác. Những chủ thể kinh tế tham gia thị trường này thường là các thể chế tài chính, các ngân hàng trung ương và các Chính phủ, những công ty, những nhà đầu cơ tiền tệ, v.v • Cầu về tiền: Là khối lượng tiền mà người nước ngoài muốn mua và có khả năng mua (chuyển đổi) đồng tiền trong nước ở các mức giá khác nhau trên thị trường ngoại hối. Có cầu về tiền của nước A trên thị trường Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ ngoại hối khi dân cư từ các nước khác mua hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Các hãng sản xuất và những người làm công sản xuất ra hàng hóa phải chi trả bằng tiền mặt của nước A, điều này đòi hỏi những người mua là người nước ngoài phải mua 225
  6. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở tiền trong thị trường ngoại hối. Một nước xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị trường ngoại hối. Đường cầu về một loại tiền là một hàm số của tỷ giá hối đoái, đường này dốc xuống về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá của nước đó càng trở nên đắt hơn đối hvới n ững người nước ngoài và càng ít hàng hoá được xuất khẩu hơn. • Cung về tiền: Là khối lượng tiền mà người dân trong nước muốn và có khả năng chuyển đổi đồng tiền nước ngoài ở các mức giá khác nhau trên thị trường ngoại hối.Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, đường này dốc lên trên về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ và hàng hoá ngoại được nhập khẩu vào thị trường quốc tế càng nhiều. Hình 8.3 mô tả, khi cung tiền bằ ng cầu tiền (đường cung tiền cắt đường cầu tiền) ta xác định được trạng thái cân bằng trên thị trường ngoại hối. Tại trạng thái cân bằng E0, chúng ta xác định được tỷ giá hối đoái là E0. Nếu xuất khẩu tăng lên, cầu tiền trên thị trường ngoại hối tăng lên, đường cầu tiền dịch chuyển sang phải, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên. Nếu nhập khẩu tăng lên, cung tiền trên thị trường ngoại hối tăng, đường cung tiền dịch chuyển sang phải, tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. M 0 Hình 8.3. Cân bằng cung tiền và cầu tiền trên thị trường ngoại hối 8.4.3. Các hệ thống tỷ giá hối đoái Có nhiều kiểu hệ thống đã được thiết lập các tỷ giá hối đoái như: Các hệ thống tỷ giá cố định, các hệ thống tỷ giá thả nổi (các tỷ giá thị trường linh hoạt) và các tỷ giá thả nổi có quản lý. • Hệ thống tỷ giá cố định: Bretton Woods (1944 – 1971) Tỷ giá hối đoái cố định, còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một sổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác, như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặ c giảm, giá trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá Quỹ tiền tệ thế giới 226
  7. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi. Gần cuối thế chiến thứ II một hội nghị đa quốc gia đã được tổ chức ở Bretton Woods New Hampshise (Mỹ) để hoạch định “một hệ thống các tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do”. Hệ thống này có các yếu tố sau: o Giá của vàng được cố định là 35 đôla Mỹ một Ounce. Nghĩa là giá trị của đồng đô la Mỹ được cố định theo vàng. o Tiền của các nước tham gia hệ thống được cố định theo đồng đôla Mỹ, các NHTƯ của những nước này có trách nhiệm duy trì các tỷ giá hối đoái của họ bằng việc mua và bán đôla trên thị trường ngoại tệ. o Quỹ tiền tệ (IMF) đã được tạo ra để quản lý hệ thống này và làm một số chức năng của NHTƯ quốc tế. Các chức năng của quỹ tiền tệ thế giới IMF trong hệ thống này là: Đảm bảo rằng các nước duy trì các tỷ giá hối đoái như đã thoả thuận cho các NHTƯ tham gia quỹ này vay tiền, khi dự trữ của họ không còn đủ để mua ho ặc bán đủ lượng tiền đôla để hỗ trợ các tỷ giá hối đoái của họ nữa; bàn bạc với các nước tham gia về những thay đổi trong các tỷ giá hối đoái của họ. Hệ thống này đã gặp một số khó khăn: o Dự trữ không tương xứng: Quy mô thương mại quốc tế tăng nhanh chóng trong những năm 1950 − 1960 gây nên những vận động tiền tệ lớn. Điều này đòi hỏi các NHTƯ phải mua và bán đôla nhiều lên nhằm duy trì các tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Một số ngân hàng nhận thấy rằng dự trữ về đôla và vàng hiện tại là không tương xứng để duy trì tỷ giá cố định. o Các điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo xu hướng lâu dài: Các tỷ lệ tăng trưởng về xuất khẩu và nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất khác nhau giữa các nước gây nên những thay đổi dài hạn về giá trị tương đối của tiền tệ. Nhiều nước đã đề nghị IMF thay đổi các tỷ giá hối đoái của họ. o Các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ: Khi đã rõ ràng rằng một đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp so với tỷ giá hiện tại của nó thì các nhà đầu cơ sẽ mua hoặc bán những lượng tiền lớn theo dự đoán của họ về sự thay đổi tỷ giá hối đoái. NHTƯ sẽ phải chi tiêu những lượng tiền ngoại tệ lớn nhằm cố gắng duy trì tỷ giá cố định cho tới khi nó được thay đổi. Vào năm 1971 các nước không còn khả năng đảm bảo rằng những đồng đôla Mỹ có thể được chuyển đổi thành vàng và tháng 8 năm 1971, Chính phủ Mỹ đã buộc phải xoá bỏ chế độ bản vị vàng của đồng USD. Trong xu hướng mở cửa và hội nhập kinh tế, việc theo đuổi chế độ tỷ giá cố định có thể dẫn đến một số vấn đề sau: o Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn thế giới, nước đó sẽ mất dần khả năng cạnh tranh trên các thị trường quốc tế, gây tổn thất cho cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. o Để đảm bảo tỷ giá hối đoái cố định, Chính phủ thường phải sử dụng các công cụ hạn chế nhập khẩu như thuế quan, hạn ngạch,.v.v. và hạn chế luồng vốn luân chuyển quốc tế 227
  8. Bài 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở nhằm kiềm chế thâm hụt cán cân thanh toán. Điều này mâu thuẫn với yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. o Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định không cho phép sử dụng chính sách tiền tệ vào các mục tiêu như ổn định giá cả hoặc tạo thêm công ăn việc làm, mà chỉ sử dụng vào một mục tiêu duy nhất là duy trì giá cả cố định ở mức đã công bố. • Các hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi (linh hoạt) Tỷ giá hối đoái thả nổi được xác định hoàn toàn bởi các lực lượng cung và cầu của thị trường, không có sự can thiệp nào của Chính phủ. Về mặt lý thuyết, các tỷ giá cần điều chỉnh một cách tự động theo những thay đổi trong lạm phát, trong cán cân thương mại và các luồng vốn và duy trì “sự ngang bằng của sức mua” sao cho có thể mua được một lượng hàng nhất định từ cùng một lượng tiền của một trong hai nước. Từ 1971, Mỹ và một số nước khác đã cho phép tiền của họ thả nổi hoàn toàn hoặc phần lớn. Tỷ giá hối đoái linh hoạt Mặc dù vậy hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi vẫn gặp phải những khó khăn: Trước năm 1971 nhiều nhà kinh tế đã ủng hộ việc để các tỷ giá hối đoái thả nổi t ự do và dự tính rằng các tỷ giá sẽ tương đối ổn định vì đầu cơ sẽ giữ chúng sát với sự ngang bằng của sức mua. Trong thực tế các tỷ giá đã chao đảo mạnh và đã tách rời khỏi sự ngang bằng của sức mua trong những thời kỳ dài. Lý do là: o Có những sự vận động về vốn do những khác biệt về lãi suất trong các nước gây ra. Các mục tiêu của chính sách trong nước đã làm cho các nước theo đuổi những chính sách tiền tệ khác nhau, chúng làm lãi suất thực tế khác nhau và làm cho những luồng vốn lớn chảy vào các nước có lãi suất cao, đẩy tỷ giá hối đoái của nước này lên bất kể các điều kiện thương mại. o Đầu cơ tiền tệ quốc tế cũng dẫn tới việc tăng và giảm khá lớn các tỷ giá hối đoái và những thay đổi này không liên quan tới các điều kiện thương mại. o Sự thay đổi về cơ cấu trong và giữa các nền kinh tế. Các giá trị tương đối của nhiều hàng hoá đã thay đổi cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp mới và sự suy giảm của những ngành cũ làm cho giá trị trao đổi thực tế thay đổi so với các giá trị dự kiến thông qua sự ngang bằng sức mua. • Các hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý Một hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (hay không thuần nhất) là một hệ thống trong đó tỷ giá hối đoái được phép thay đổi phù hợp với điều kiện thị trường, nhưng đôi khi Chính phủ can thiệp vào để ngăn ngừa không cho nó vận động ra ngoài các giới hạn nhất định. Không để cho tỷ giá hoàn toàn thả nổi theo các lực lượng cung và cầu như trong hệ thống tỷ giá thả nổi, các ngân hàng trung ương đều có những can thiệp nhất định vào thị trường ngoại hối. Tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý 228