Giáo trình Lý thuyết tài chính (Phần 2) - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
Cơ sở hình thành quan hệ tài chính quốc tế
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, các quan hệ tài chính quốc
tế đã ra đời và phát triển từ những hình thức giản đơn đến phức tạp, gắn với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau.Trong điều kiện hiện nay, quan hệ tài
chính quốc tế có ý nghĩa to lớn với xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá của các
nước. Từ chế độ chiếm hữu nô lệ đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính quốc tế
sơ khai dưới hình thức cống nộp vàng, bạc, châu báu giữa nước này với nước
khác. Với sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế, ngoại thương xuất hiện
và phát triển đã dẫn đến sự xuất hiện của thuế quan và tín dụng quốc tế vào cuối
thời kỳ của chế độ phong kiến. Có thể thấy sự xuất hiện và tồn tại các quan hệ
tài chính quốc tế là một tất yếu của phạm trù tài chính, xuất phát từ các cơ sở
khách quan cả về mặt kinh tế và chính trị.
- Về mặt kinh tế.
Đây là yếu tố giữ vai trò quyết định cho sự phát triển của các quan hệ tài
chính quôc tế. Mỗi quốc gia là một bộ phận trong nền kinh tế thế giới, có quan
hệ hữu cơ với nhau, cùng tham gia vào phân công lao động quốc tế nhiều mức
độ khác nhau.
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung
cấp một hoặc một só loại sản phẩm và dịch vụ vào một quốc gia nhất định dựa
trên cơ sở những ưu thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, điều kiện
kinh tế, khoa học công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác
thông qua sự trao đổi quốc tế. Thực chất của phân công lao động quốc tế là sự
chuyên môn hoá sản xuất giữa các quốc gia với nhau, thông qua cạnh tranh trên
thị trường thế giới.
Phân công lao động quốc tế quyết định sự tồn tại và phát triển của các
quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia, từ đó nảy sinh các quan hệ hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác nhau, chính điều đó lại quyết định cho sự nảy
sinh và phát triển các quan hệ tài chính quốc tế.
- Về mặt chính trị.
Nếu yếu tố kinh tế quyết định sự tồn tại và phát triển các quan hệ tài chính
quốc tế thì yếu tố chính trị có tác động trực tiếp đến hình thức và mức độ của
các mối quan hệ đó.
Quan hệ tài chính quốc tế phát sinh giữa các quốc gia nên chịu sự chi phối
của cơ chế, chính sách, đường lối đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Quan hệ tài chính quốc tế của mỗi nước suy cho cùng trước hết phải phục vụ
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia mình; do đó với tư cách là chủ thể
tổ chức và quản lý nền kinh tế, Nhà nước là người có vai trò quan trọng trong
việc
hình thành và phát triển các mối quan hệ tài chính đối ngoại với các nước khác.
Cũng cần nhận thấy rằng đường lối, chính sách của Nhà nước trong từng
thời kỳ phụ thuộc rất lớn vào khả năng nhận thức và trình độ tổ chức quản lý
nhà nước. Do đó, tác động của nhà nước có thể là thúc đẩy hoặc cũng có thể là
kìm hãm sự phát triển các quan hệ tài chính quốc tế.
Qua phân tích có thể thấy quan hệ kinh tế và chính trị giữa các nước trong
cộng đồng quốc tế là cơ sở khách quan của sự ra đời và phát triển các quan hệ
tài chính quốc tế, trong đó các quan hệ kinh tế đóng vai trò quyết định.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, các quan hệ tài chính quốc
tế đã ra đời và phát triển từ những hình thức giản đơn đến phức tạp, gắn với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau.Trong điều kiện hiện nay, quan hệ tài
chính quốc tế có ý nghĩa to lớn với xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá của các
nước. Từ chế độ chiếm hữu nô lệ đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính quốc tế
sơ khai dưới hình thức cống nộp vàng, bạc, châu báu giữa nước này với nước
khác. Với sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế, ngoại thương xuất hiện
và phát triển đã dẫn đến sự xuất hiện của thuế quan và tín dụng quốc tế vào cuối
thời kỳ của chế độ phong kiến. Có thể thấy sự xuất hiện và tồn tại các quan hệ
tài chính quốc tế là một tất yếu của phạm trù tài chính, xuất phát từ các cơ sở
khách quan cả về mặt kinh tế và chính trị.
- Về mặt kinh tế.
Đây là yếu tố giữ vai trò quyết định cho sự phát triển của các quan hệ tài
chính quôc tế. Mỗi quốc gia là một bộ phận trong nền kinh tế thế giới, có quan
hệ hữu cơ với nhau, cùng tham gia vào phân công lao động quốc tế nhiều mức
độ khác nhau.
Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung
cấp một hoặc một só loại sản phẩm và dịch vụ vào một quốc gia nhất định dựa
trên cơ sở những ưu thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, điều kiện
kinh tế, khoa học công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác
thông qua sự trao đổi quốc tế. Thực chất của phân công lao động quốc tế là sự
chuyên môn hoá sản xuất giữa các quốc gia với nhau, thông qua cạnh tranh trên
thị trường thế giới.
Phân công lao động quốc tế quyết định sự tồn tại và phát triển của các
quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia, từ đó nảy sinh các quan hệ hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác nhau, chính điều đó lại quyết định cho sự nảy
sinh và phát triển các quan hệ tài chính quốc tế.
- Về mặt chính trị.
Nếu yếu tố kinh tế quyết định sự tồn tại và phát triển các quan hệ tài chính
quốc tế thì yếu tố chính trị có tác động trực tiếp đến hình thức và mức độ của
các mối quan hệ đó.
Quan hệ tài chính quốc tế phát sinh giữa các quốc gia nên chịu sự chi phối
của cơ chế, chính sách, đường lối đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Quan hệ tài chính quốc tế của mỗi nước suy cho cùng trước hết phải phục vụ
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia mình; do đó với tư cách là chủ thể
tổ chức và quản lý nền kinh tế, Nhà nước là người có vai trò quan trọng trong
việc
hình thành và phát triển các mối quan hệ tài chính đối ngoại với các nước khác.
Cũng cần nhận thấy rằng đường lối, chính sách của Nhà nước trong từng
thời kỳ phụ thuộc rất lớn vào khả năng nhận thức và trình độ tổ chức quản lý
nhà nước. Do đó, tác động của nhà nước có thể là thúc đẩy hoặc cũng có thể là
kìm hãm sự phát triển các quan hệ tài chính quốc tế.
Qua phân tích có thể thấy quan hệ kinh tế và chính trị giữa các nước trong
cộng đồng quốc tế là cơ sở khách quan của sự ra đời và phát triển các quan hệ
tài chính quốc tế, trong đó các quan hệ kinh tế đóng vai trò quyết định.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý thuyết tài chính (Phần 2) - Trường Cao đẳng nghề Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_thuyet_tai_chinh_phan_2_truong_cao_dang_nghe_n.pdf
Nội dung text: Giáo trình Lý thuyết tài chính (Phần 2) - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh Điều hành hoạt động của IMF gồm có một hội đồng các thống đốc, một ban diều hành, một tổng giám đốc điều hành và đội ngũ nhân sự. Mỗi quốc gia thành viên đều có một thống đốc đại diện và một thống đốc dự bị trong hội đồng các thống đốc. Trụ sở chính của IMF đặt tại Washington. Hoạt động hàng ngày của quỹ do một ban điều hành thực hiện, gồm 22 giám sát, đứng đầu là một tổng giám đốc điều hành. 2.3. Mục đích hoạt động của IMF - Thúc đẩy hợp tác tiền tệ quốc tế. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và tăng trưởng ổn định của thương mại quốc tế. - Thúc đẩy sự ổn định về hối đoái, duy trì việc dàn xếp hối đoái có trật tự giữa các thành viên. - Hỗ trợ trong việc thiết lập hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên. - Giúp các nước thành viên bằng cách cho tận dụng nguồn vốn chung của IMF để sửa chữa các sai sót trong cán cân thanh toán. - Rút ngắn giai đoạn làm giảm bớt mức độ mất cân đối trong cán cân thanh toán giữa các nước thành viên. 2.4.Nguồn vốn của IMF Nguồn vốn của IMF bao gồm nguồn tự có và nguồn đi vay. - Nguồn tự có do các thành viên đóng góp theo hạn mức của mình và thu nhạp ròng của quỹ không đem phân chia. Nguồn vốn này gồm có vàng, SDR và tiền của các nước thành viên. Hạn mức đóng góp của mỗi nước thành viên là quota. Hạn mức này phụ thuộc vào mức độ phát triển của mỗi nước. - IMF có thể bổ sung nguồn vốn của quỹ bằng cách đi vay. Quỹ có một số thoả thuận vay mượn trong thực tế nhằm đáp ứng nhu cầu tài trợ bổ sung ngày càng tăng lên của các nước thành viên. 2.5. Các hình thức tài trợ của IMF - Các hình thức sử dụng nguồn vốn chung của quỹ: Sử dụng nguồn vốn chung của quỹ là hình thức các nước thành viên dùng đồng tiền của mình mua SDR của quỹ hay đồng tiền của một nước thành viên khác để sử dụng trong một thời hạn xác định nào đó, chủ yếu là dùng cho nhu cầu về cán cân thanh toán. - Các hình thức cho vay trợ giúp đặc biệt. Tæ bé m«n kÕ to¸n 76 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh Các hình thức này có thể áp dụng bổ sung các hình thức đã nêu trên và cũng để giúp giải quyết một số khó khăn cụ thể của cán cân thanh toán. Có các hình thức cho vay trợ giúp cụ thể để hỗ trợ do thiếu hụt xuất khẩu tạm thời và bù cho chi phí nhập khẩu. Mức độ cho vay cũng tuỳ thuộc vào hạn mức đóng góp và mức độ thâm hụt xuất khẩu. - Các hình thức tài trợ cho các nước thành viên có thu nhập thấp Đối với các nước đang phát triển, IMF có thể dành nguồn vốn trợ giúp với các điều kiện ưu đãi, thông qua các hình thức cho vay từ quỹ tín thác, vay điều chỉnh cơ cấu, vay điều chỉnh cơ cấu mở rộng. 3. Ngân hàng thế giới (WB - World Bank) Ngân hàng thế giới là một nhóm tổ chức tài chính quốc tế, bao gồm: Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD), Công ty tài chính quốc tế (IFC), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA); Cơ quan đảm bảo đầu tư đa phương (MIGA) với mục tiêu chung nhất là giúp các nước phát triển nâng cao mức sống và phát triển kinh tế thông qua việc chuyển các nguồn tài trợ từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển. Chỉ có những nước thành viên của IMF thì mới được tham gia WB và trong nội bộ WB thì chỉ có những nước đã là thành viên của IBRD mới được chấp nhận là thành viên. Hội đồng thống đốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của WB. Ban giám đốc điều hành là cơ quan chấp hành của WB, quản lý toàn bộ hoạt động của WB theo sự uỷ nhiệm của hội đồng Thống đốc. Trong các tổ chức của WB, vai trò của IBRD rất lớn. Mục đích đầu tiên của IBRD là giúp đỡ các nước thành viên, chủ yếu là các nước TBCN Châu Âu khôi phục kinh tế sau chiến tranh Thế giới lần thứ II, sau đó giúp đỡ các nước đang phát triển về vốn và kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích và đảm bảo đầu tư của tư bản tư nhân vào các khu vực thiếu vốn đi vay. Các nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động tín dụng của IBRD là: - Chỉ cho vay đối với những nước có khả năng trả nợ. - Việc cho vay chỉ được tiến hành với Chính phủ hay các tư nhân có sự đảm bảo của Chính phủ. - Khi cho vay ngân hàng cần xem xét, đánh giá tiềm lực kinh tế của nước đi vay. - Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất thị trường. - Nước đi vay không bắt buộc phải dùng tiền vay để mua hàng ở bất kỳ một nước thành viên nào. Tæ bé m«n kÕ to¸n 77 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh 4. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB- Asian Development Bank) ADB là một tổ chức tín dụng quốc tế liên Chính phủ của các nước ở Châu á và Thái Bình Dương, được thành lập ngày 28/8/1966 và chính thức hoạt động ngày 19/12/1966. Lúc mới thành lập, ADB có 31 thành viên, đến nay số thành viên là gần 50 nước. Ngoài các nước thuộc Châu Á, ADB còn có các nước thuộc Châu lục khác: Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan Mục đích của ngân hàng là nhằm xúc tiến những tiến bộ về kinh tế, xã hội của các nước thành viên thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thúc đẩy hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa các nước trong khu vực với nhau với các nước thành viên thuộc các khu vực khác của Thế giới. Nguồn vốn hoạt động của ADB dựa vào phần đóng góp của các nước thành viên à vốn vay trên thị trường tài chính quốc tế. Hướng đầu tư tín dụng của ADB là các ngành công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế ở các nước thành viên. Nguồn vốn dành cho đầu tư tín dụng của ADB được chia thành 3 quỹ: - Quỹ phát triển Châu Á: Dùng để cho vay đối với các nước thành viên nghèo - Quỹ hỗ trợ kỹ thuật: Dùng để tài trợ về kỹ thuật cho các nước thành viên. - Quỹ đặc biệt Nhật Bản: Do Nhật Bản trực tiếp cấp vốn cho quỹ và sử dụng theo các chương trình cấp tín dụng của Nhật Bản. Việt Nam là thành viên của ADB từ năm 1966. Hiện nay nguồn vốn vay ADB có tầm quan trọng rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là đối với các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Câu hỏi ôn tập chương V 1. Tài chính quốc tế là gì? Đặc điểm của tài chính quốc tế tác động đến nền kinh tế quốc dân như thế nào ? 2. Tài chính quốc tế là gì? Trình bày vai trò của tài chính quốc tế? 3. Trình bày các hình thức và ưu nhược điểm của tín dụng quốc tế? 4. Phân biệt các hình thức quan hệ tài chính quốc tế của Việt Nam. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam? 5. Trình bày nội dung cơ bản về UNDP và IMF? Tæ bé m«n kÕ to¸n 78 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh CHƯƠNG VI THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1. Khái niệm thị trường tài chính Thị trường tài chính là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện những chủ thể cần nguồn tài chính và những người có khả năng cung ứng nguồn tài chính. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các hoạt động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát triển, hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính. 2. Điều kiện hình thành thị trường tài chính Thị trường tài chính đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng thị trường tài chính chỉ thực sự phát huy vai trò tích cực khi nó được hình thành trong những điều kiện cần thiết như: 2.1. Nền kinh tế hàng hoá phát triển, tiền tệ ổn định với mức độ lạm phát có thể kiểm soát được. Sự hình thành thị trường tài chính liên quan chặt chẽ với kinh tế hàng hoá tiền tệ. Chỉ có trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá phát triển mới xuất hiện nhu cầu to lớn về vốn hoạt động của các chủ thể kinh tế - xã hội; đồng thời cũng từ đó xuất hiện các chủ thể có khả năng cung ứng vốn. Đây chính là tiền đề cần thiết của sự ra đời thị trường tài chính. Ngược lại sẽ không có hiệu quả và không cần thiết nếu hình thành một thị trường tài chính trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển. Mặt khác, tiền tệ ổn định với mức lạm phát có thể kiểm soát được là một điều kiện rất quan trọng để hình thành thị trường tài chính. Bản thân những người có vốn khi thực hiện đầu tư vào chứng khoán luôn quan tâm đến độ an toàn cho đồng vốn của họ, sẽ không dám và không chấp nhận mạo hiểm với mức độ rủi ro quá cao trong khi tiền tệ không ổn định. Người có vốn chỉ chấp nhận đầu tư khi tỷ suất lợi nhuận của họ chắc chắn lớn hơn tỷ lệ lạm phát; họ chỉ Tæ bé m«n kÕ to¸n 79 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh có thể đưa ra quyết định đầu tư khi tiền tệ ổn định, lạm phát có thể kiểm soát được. Như vậy, không có người cung cấp nguồn tài chính, thị trường tài chính sẽ không thể hình thành. 2.2. Các công cụ của thị trường tài chính phải đa dạng, tạo ra các phương tiện chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính. Để thu hút, chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính cần phải có các công cụ phong phú và đa dạng như: cổ phiếu, trái phiếu, doanh nghiệp, công trái, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ đầu tư Các công cụ này cần phải được phát hành và tự do mua bán chuyển nhượng giữa các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội. Các công cụ đa dạng về hình thức, thời gian sử dụng và mệnh giá bao nhiêu thì càng phù hợp với nhu cầu của chủ thể sử dụng nguồn tài chính, phù hợp với khả năng của chủ thể cung cấp nguồn tài chính bấy nhiêu. Từ đó tạo điều kiện cho nhiều chủ thể có thể tham gia trao đổi quyền sử dụng nguồn tài chính. Phạm vi và quy mô giao dịch của thị trường tài chính phụ thuộc rất nhiều vào các loại và số lượng các chứng khoán được phát hành, lưu thông trên thị trường. 2.3. Hình thành và phát triển hệ thống các trung gian tài chính Các trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm, các công ty kinh doanh chứng khoán và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác có vai trò rất quan trọng trên thị trường tài chính. Đó vừa là các chủ thể trực tiếp tham gia vào việc mua, bán chứng khoán; đồng thời cũng là người đóng vai trò trung gian trong việc cung ứng vốn. Việc mua bán trên thị trường tài chính được tổ chức chặt chẽ, mọi quan hệ giao dịch được thực hiện thông qua các công ty kinh doanh chứng khoán, nguồn huy động và cung ứng cho thị trường gắn liền với hoạt động của các ngân hành thương mại, các tổ chức bảo hiểm, các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Vì vậy, việc hình thành và phát triển các tổ chức tài chính trung gian sẽ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự luân chuyển vốn và di chuyển vốn trong nền kinh tế,làm phon phú thêm hoạt động của thị trường tài chính. 2.4. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy chế cần thiết làm cơ sở hoạt động và kiểm soát thị trường tài chính. Thị trường tài chính có cơ chế vận hành phức tạp, liên quan đến một lượng giá trị tiền vốn luân chuyển rất lớn, có thể chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống luật pháp và quy chế chặt chẽ nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các chủ thể và có thể kiểm soát thị trường. Có như vậy mới đảm bảo hoạt động của thị trường tài chinh an toàn và hiệu quả. 2.5. Phải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và có được hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động thị trường. Tæ bé m«n kÕ to¸n 80 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh Không giống như các thị trường hàng hoá thông thường khác, việc giao dịch trên thị trường tài chính mà biểu hiện tập trung ở Sở giao dịch chứng khoán; đòi hỏi một hệ thống thông tin kinh tế hiện đại, có thể đáp ứng một cách tốt nhất mọi yêu cầu về thông tin trong giao dịch cho các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính. Mặt khác, để có thể quản lý và kiểm soát thị trường, các cơ quan chức năng cũng đòi hỏi phải được cung cấp thông tin một cách đầy đủ và kịp thời liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Nếu yêu cầu về thong tin không được đáp ứng đầy đủ, thị trường tài chính không thể hoạt động có hiệu quả cũng như không thể kiểm soát và quản lý thị trường 2.6.Cần có đội ngũ các nhà kinh doanh, các nhà quản lý có năng lực, am hiểu thị trường. Thị trường tài chính được tổ chức rất cao, đòi hỏi một lực lượng các nhà chuyên môn thật sự có năng lực tổ chức và điều hành. Các hoạt động trên thị trường từ việc phát hành chứng khoán đến việc dàn xếp các giao dịch mua, bán; các hoạt động tư vấn, môi giới đều đòi hỏi người thực hiện phải am hiểu và năng động mới có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao theo xu thế phát triển không ngừng của thị trường. 3. Phân loại thị trường tài chính 3.1. Căn cứ vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được Dựa vào thời gian sử dụng nguồn tài chính, thị trường tài chính được phân thành : thị trường tiền tệ (TTTC ngắn hạn) và thị trường vốn (TTTC dài hạn) - Thị trường tiền tệ được chuyên môn hoá trong việc chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính ngắn hạn. Trên thị trường này chỉ có các công cụ nợ ngắn hạn (kỳ hạn đến 1 năm) được mua bán. Chủ thể huy động nguồn tài chính chỉ có quyền sử dụg nguồn tài chính huy động được trong thời gian ngắn. Nhìn chung, các công cụ này đều có tính thanh khoản rất cao. - Thị trường vốn được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng dài hạn hơn ( lớn hơn 1 năm). Trên thị trường này có các công cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu được mua bán. Người huy động nguồn tài chính dài hạn được quyền sử dụng nguồn tài chính huy động được trong thời gian dài. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tiền tệ sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn. 3.2. Căn cứ phương thức huy động nguồn tài chính. Thị trường tài chính được chia thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần. Tæ bé m«n kÕ to¸n 81 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh - Thị trường nợ: là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ. Các chủ thể huy động nguồn tài chính thông qua phương thức chung nhất là đặt ra một công cụ vay nợ, chẳng hạn chứng khoán hoặc một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là một thoả thuận mang tính hợp đồng, trong đó người vay phải thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền lãi cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn. - Thị trường vốn cổ phần: là nơi diễn ra việc mua bán các cổ phiếu. Các chủ thể huy động vốn thông qua phương thức phát hành cổ phiếu. Khi bán được cổ phiếu, các công ty cổ phần có được nguồn tài chính để hình thành, tăng thêm vốn tự có của mình. Các công ty này có quyền sử dụng nguòn tài chính đó trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động của công ty. Các cổ đông (người nắm giữ cổ phiếu) sẽ là đồng sở hữu công ty cổ phần và được chia lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty. 3.3. Căn cứ sự luân chuyển các nguồn tài chính. Thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thứ cấp. - Thị trường sơ cấp: là thị trường tài chính trong đó những chứng khoán mới phát hành được người huy động nguồn tài chính bán cho người đầu tiên mua nó. Các loại chứng khoán như: cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ khi mới phát hành đều được đem bán ở thị trường này. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp huy động nguồn tài chính trong xã hội chuyển thành vón đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nguồn tài chính được vận động từ người đầu tư sang chủ thể phát hành chứng khoán. - Thị trường thứ cấp: là thị trường tài chính trong đó thực hiện giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường này diễn ra việc mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Nguồn tài chính thu được từ việc bán chứng khoán không vận động đến chủ thể phát hành mà thuộc về nà đầu tư đã bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. 3.4. Căn cứ vào tính chất pháp lý Thị trường tài chính được chia thành hai bộ phận: thị trường tài chính chính thức và thị trường tài chính không chính thức. - Thị trường tài chính chính thức: là bộ phận thị trường tài chính, tại đó các hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo những nguyên tắc, thể chế nhất định, được nhà nước quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia thị trường này với quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của họ được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. - Thị trường không chính thức: là thị trường tài chính mà ở đó hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo sự thoả thuận giữa người cung cấp nguồn tài chính và người càn nguồn tài chính không theo nguyên tắc, thể chế do nhà nước quy định. Tæ bé m«n kÕ to¸n 82 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh 4. Vai trò, chức năng của thị trường tài chính 4.1. Vai trò của thị trường tài chính. Thực hiện các chức năng của thị trường tài chính sẽ phát huy được vai trò của thị trường tài chính. Các vai trò của thị trường tài chính đó là: 4.1.1. Thị trường tài chính thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Để phát triển kinh tế - xã hội cần huy động tối đa các nguồn tài chính cung cấp cho đầu tư phát triên kinh tế - xã hội, trong khi đó nền kinh tế luôn luôn tồn tại các nguồn tài chính nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi với thời hạn ngắn, dài và quy mô khác nhau. Sự hoạt động của thị trường tài chính với các công cụ đa dạng, phong phú đã góp phần thu hút, chuyển giao các nguồn tài chính nhàn rỗi, phân tán trong xã hội thành nguồn tài chính to lớn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, thị trường tài chính còn là kênh huy động vốn đầu tư rất lớn, với thời hạn dài. Nó không chỉ thu hút, huy động nguồn tài chính trong nước mà còn thu hút, huy động nguồn tài chính nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể bỏ vào mua các chứng khoán trên thị trường tài chính một cách dễ dàng, nhờ đó nguồn tài chính với các quy mô khác nhau được vận động từ nước ngoài vào trong nước mà kông cần phải qua các thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn như các hình thức đầu tư trực tiếp 4.1.2. Thị trường tài chính góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính. Người cần vốn khi huy động các nguồn tài chính phải chịu các khoản chi phí sử dụng vốn nhất định, thể hiện bằng lợi tức phải trả cho các loại chứng khoán do họ phát hành. Điều đó buộc họ phải cân nhắc, lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả cao, ít rủi ro; đồng thời cũng lựa chọn hình thức và thời điểm huy động vốn phù hợp nhất để giảm thấp chi phí tài trợ phải gánh chịu Người có nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi bao giờ cũng muốn đầu tư với khả năng sinh lãi cao nhất và có độ an toàn cao nhất. Nhờ có thị trường tài chính với nhiều công cụ huy động vốn khác nhau của nhiều chủ thể phát hành khác nhau, người có vốn có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức và thời điểm đầu tư thích hợp. Khi cần thiết họ có thể dễ dàng bán lại các loại chứng khoán đã mua để rút vốn và thực hiện đầu tư vào loại chứng khoán khác; nhờ đó xét trên tổng thể, thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc luân chuyển vốn và sự di chuyển vốn từ lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả sang lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả hơn. Tæ bé m«n kÕ to¸n 83 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh 4.1.3. Thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước. Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô các hoạt động kinh tế, xã hội thông qua các công cụ tài chính tiền tệ được thể chế hoá bằng các chính sách trong từng thời kỳ. Bằng việc sử dụng các công cụ tài chính cùng với cơ chế hoạt động và hệ thống luật pháp kiểm soát các mặt hoạt động của thị trường. Nhà nước có thể thực thi có hiệu quả các chính sách tài chính và tiền tệ của mình như: - Thông qua việc thực hiện chính sách thị trường mở bằng việc mua, bán chứng khoán của Chính phủ có thể làm tăng hoặc giảm dự trữ của ngân hàng. - Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại, Nhà nước có thể thực hiện việc điều hoà lưu thông tiền tệ. 4.1.4. Thị trường tài chính góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, việc hình thành và phát triển thị trường tài chính của mỗi quốc gia được xem như một nhu cầu tất yếu. Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình hội nhập của mỗi quốc gia, mở ra khả năng to lớn cho sự hợp tác và phát triển. Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia mua, bán chứng khoán; qua đó có thể huy động một bộ phận quan trọng các nguồn lực tài chính từ bên ngoài phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. 4.2. Chức năng của thị trường tài chính. 4.2.1. Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi thu hút mạnh mẽ mọi nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển giao những nguồn này cho các nhu cầu đầu tư phát triển nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc thoả mãn nhu cầu khác nhau của chủ thể cần nguồn tài chính . Thị trường tài chính được xem như cầu nối giữa tích luỹ và đầu tư, giữa người cung nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính. Nó giúp họ gặp nhau, cung ứng nguồn tài chính cho nhau dưới hình thức mua bán các chứng khoán. 4.2.2. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán. Thị trường tài chính là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Bởi vậy, nhờ thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc thành các chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với các nhà đầu tư. Tæ bé m«n kÕ to¸n 84 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh