Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 5: Mô hình IS-LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

Nội dung
 Phân tích và xây dựng đường IS
 Phân tích và xây dựng đường LM
 Đánh giá cơ chế tác động của sự phối hợp
giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
pdf 20 trang hoanghoa 07/11/2022 4360
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 5: Mô hình IS-LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_5_mo_hinh_is_lm_va_su_phoi.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 5: Mô hình IS-LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ

  1. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ 5.3.4.1. Sự phối hợp chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá lỏng (tăng chi tiêu, giảm thuế) thì tổng cầu sẽ tăng lên, đường IS sẽ dịch chuyển sang phải từ IS1 IS2 (xem hình 5.13), nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại E1. Kết quả là lãi suất tăng từ r0 r1, mức sản lượng cân bằng tăng từ Y0 Y1. Do lãi suất tăng, đầu tư giảm, xảy ra hiện tượng tháo lui đầu tư. Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá mở rộng (tăng chi tiêu, giảm thuế) và chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền), đường IS sẽ dịch chuyển đến IS2, đường LM dịch chuyển đến LM2. Mức lãi suất LM1 LM2 E1 r1 E0 r0 E2 IS2 IS1 Tác động của chính sách tài khóa 0 thắt hặt Y Y Sản lượng 0 Y1 2 Hình 5.13. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng Để tránh được hiện tượng tháo lui đầu tư, Chính phủ phải kết hợp chính sách tiền tệ lỏng và chính sách tiền tệ lỏng. Đó là việc Chính phủ tăng mức cung tiền và duy trì mức lãi suất r0, đường LM dịch chuyển sang phải từ LM1 LM2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới tại E2, lúc này lãi suất giảm từ r1 về mức lãi suất ban đầu r0, sản lượng cân bằng tăng lên từ Y1 Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là: Thu nhập tăng nhanh từ Y0 Y2 và ổn định được lãi suất. 5.3.4.2. Sự phối hợp giữa chính sách tài khoá chặt và chính sách tiền tệ chặt Chính sách tài khoá chặt (chính sách tài khoá thắt chặt) là chính sách sử dụng nhằm tăng thuế T, giảm chi tiêu G để giảm tổng cầu AD và thu hẹp phạm vi phát triển của nền kinh tế. Hình 5.14 dưới đây miêu tả Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá thắt chặt và chính sách tiền tệ thắt chặt làm giảm sản lượng cân bằng của nền kinh tế từ Y0 Y1, lãi suất cân bằng không đổi. Chính sách tiền tệ chặt (chính sách tiền tệ thắt chặt) sử dụng nhằm giảm mức cung tiền MS, tăng lãi suất r để giảm tổng cầu AD nhằm giảm sản lượng cân bằng Y. Mức lãi suất LM2 LM1 r0 E2 r1 E0 E1 Is2 IS1 0 Y Y Sản lượng 2 1 Y0 Hình 5.14. Chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt ECO102_Bai5_v2.0013107216 115
  2. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Khi Nhà nước sử dụng chính sách tài khoá chặt đường IS sẽ dịch chuyển sang trái, IS giảm từ IS1 IS2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới, sản lượng cân bằng giảm từ Y0 Y1, lãi suất giảm từ r0 r1. Để kìm hãm bớt tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tránh nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng, Nhà nước có thể phối hợp với chính sách tiền tệ thắt chặt. Nhà nước giảm mức cung tiền, tăng lãi suất i, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái LM giảm từ LM1 LM2. Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới là E2, lãi suất tăng từ r1 r0, sản lượng giảm từ Y1 Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách đã làm cho sản lượng giảm nhanh, lãi suất r không thay đổi, tránh được nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng quá nóng. 5.3.4.3. Sự phối hợp giữa chính sách tài khoá lỏng và chính sách tiền tệ chặt Để tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng sản lượng cân bằng Y của nền kinh tế, Chính phủ phải sử dụng chính sách tài khoá lỏng (tăng G, giảm T), hình 5.15 cho thấy, đường IS dịch chuyển từ IS0 IS1, điểm cân bằng mới là E1, lãi suất tăng, sản lượng cân bằng tăng nhanh từ Y0 Y1. Mức lãi suất IS1 LM IS0 1 LM0 r2 E2 r1 E1 E0 r0 IS 0 Y Y Y 0 2 1 Sản lượng Hình 5.15. Chính sách tài khóa lỏng và chính sách tiền tệ chặt Kết quả của chính sách tài khoá lỏng và chính sách tiền tệ chặt là làm cho sản lượng tăng lên ở mức độ hợp lý từ Y0 Y2; lãi suất tăng từ r0 r2; không gây lạm phát cao. Nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh, lạm phát cao. Nhà nước cần sử dụng chính sách tiền tệ chặt, để hỗ trợ cho chính sách tài khoá lỏng. Nền kinh tế đang đạt trạng thái cân bằng tại điểm E1. Khi sử dụng chính sách tiền tệ chặt, mức cung tiền giảm, lãi suất tăng, đầu tư có xu hướng giảm, nền kinh tế chuyển sang trạng thái cân bằng mới tại E2, lãi suất tăng từ r1 r2, sản lượng cân bằng giảm từ Y1 Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là làm cho sản lượng tăng lên ở mức độ hợp lý, đạt được tốc độ tăng Nền kinh tế phát triển nóng trưởng dài hạn, không gây lạm phát cao: Sản lượng cân bằng tăng từ Y0 Y2, lãi suất tăng từ r0 r2. 116 ECO102_Bai5_v2.0013107216
  3. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Nghiên cứu trường hợp Việt Nam Chính sách tài khoá “cãi” chính sách tiền tệ? (VietNamNet) – Chính sách tiền tệ vẫn thắt chặt trong khi chính sách tài khoá lại nới lỏng khiến áp lực lạm phát và lãi suất dâng cao. Đó là lý do chính khiến các chuyên gia cho rằng, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính lệch pha nhau trong việc điều hành chính sách tài chính – tiền tệ. Tại cuộc hội thảo khoa học về Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ở Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội, nhiều ý kiến đã cho rằng, hai chính sách quan trọng này của Việt Nam vẫn chưa phối hợp nhịp nhàng với nhau. Thậm chí, có chuyên gia còn cho rằng, trong tình hình nguy cơ lạm phát như hiện nay, hai chính sách này cũng không đồng nhất trong mục tiêu hướng tới. Chính sách tiền tệ vẫn bị thắt chặt trong khi chính sách tài khoá lại nới lỏng khiến áp lực lạm phát vẫn cao và lãi suất cũng cao. Người thắt – kẻ nới Tuy nhiên, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái chiết khấu, tăng các lãi suất chỉ đạo khác, Việc sử dụng chính sách tiền tệ thận trọng đã góp phần kiềm chế lạm phát ở mức một con số. Nhưng theo ông Nghĩa, cái giá nền kinh tế phải trả là lãi suất cao và lạm phát cao trong điều kiện cố gắng đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao như dự kiến. Cũng theo ông Nghĩa, sự phối hợp chưa đồng điệu giữa hai chính sách này cũng gây ra nhiều ảnh hưởng khác. Chẳng hạn, để đạt được mục tiêu huy động vốn phục vụ cho các mục đích của Chính phủ (trong đó có bù đắp thâm hụt ngân sách), thông thường lãi suất trái phiếu thường cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại. Điều này đã làm cho luồng tiền vốn dịch chuyển từ khu vực dân cư và doanh nghiệp vào trái phiếu để hưởng lợi và đương nhiên đầu tư phát triển kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân sẽ giảm xuống. Thêm vào đó, hàng năm Ngân hàng Trung ương vẫn phải cung ứng lượng tiền không nhỏ cho Ngân sách Nhà nước mà theo quy định "khoản tạm ứng này phải hoàn trả trong năm ngân sách". Nhưng thực tế, nó đã không được hoàn trả đúng hạn và việc cho vay như vậy đã dẫn tới lượng tiền cơ sở tăng và kết quả gây áp lực tăng lạm phát. Ông Nguyễn Ngọc Bảo – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ – thì băn khoăn là hai cơ quan này chưa phối hợp tốt trong việc trao đổi thông tin điều hành. Việc phối hợp về lãi suất cũng chưa hợp lý. Lãi suất tín phiếu kho bạc lẽ ra phải thấp nhất trên thị trường, nhưng trên thực tế nó lại mang tính chỉ đạo của Bộ Tài chính, cao hơn hoặc bằng lãi suất huy động của các ngân hàng, chưa thành lãi suất chuẩn cho thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước không kiểm soát được các dòng luân chuyển tiền. Trong bài tham luận của mình, TS Nguyễn Đại Lai – Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước – cũng nhận định rằng công nghệ thanh toán nói chung và hệ thống thanh toán liên ngành giữa Ngân hàng và Tài chính nói riêng còn quá rời rạc. Ông Lai chứng minh rằng, tại khoản 3 (Điều 34 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997) ghi: "Ngân hàng Nhà nước mở tài khoản và thực hiện các giao dịch cho Kho bạc Nhà nước. Ở huyện, thị xã không phải là tỉnh lỵ, Kho bạc Nhà nước mở tài khoản tại một ngân hàng thương mại Nhà nước". Đây là một ràng buộc pháp lý ở cấp Luật, nhưng ECO102_Bai5_v2.0013107216 117
  4. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cách diễn đạt như vậy đã không phản ánh được tính chất nghiêm ngặt của luật pháp mà chỉ làm cho các bên thực hiện hiểu đây là một qui định phản ánh trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương hơn là buộc Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản và thanh toán qua hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy, trên thực tế các dòng luân chuyển tiền và qui chế mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước qua hệ thống ngân hàng còn mang nặng tính chia cắt và tuỳ tiện. Việc mở tài khoản hiện tại của kho bạc chỉ để thanh toán chuyển khoản những món nợ nần giữa kho bạc, hoặc giữa các quĩ của Nhà nước với các bên liên quan hơn là để Ngân hàng Nhà nước kiểm soát việc luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến nay vẫn chưa thành lập được trung tâm thanh toán quốc gia nên Kho bạc Nhà nước vẫn phải xây "kho" chứa tiền theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ này. Chính “Tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" của Kho bạc Nhà nước đối với một khối lượng tiền khổng lồ của quốc gia luôn tương đương với tổng thu ngân sách hàng năm cộng với các nguồn vay trong và ngoài nước của Chính phủ đạt tới doanh số trên dưới 33% GDP trên hệ số quay vòng tiền tệ quân bình của kho bạc, đã làm biến đổi môi trường lưu thông tiền tệ theo hướng phi thị trường hoá", ông Lai nhận xét. Riêng thị phần tín dụng cho đầu tư phát triển từ khu vực ngân sách Nhà nước và các "Quỹ" tài chính nhà nước ngoài ngân sách đã chiếm tới hơn 30% tổng đầu tư toàn xã hội trong những năm vừa qua. Đó là chưa kể, phần tín dụng chính sách, phần vốn nhà nước ở khu vực các doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng quốc doanh và phần bù lãi suất cho tín dụng chính sách ưu đãi hàng năm cũng ngày càng gia tăng. Luật pháp điều chỉnh không thống nhất đã làm chia cắt và rối loạn thị trường tài chính. Ngoài ra, với qui mô luân chuyển và sử dụng khối lượng tiền lớn như vậy, nếu không đi qua một trung tâm thanh toán thống nhất "một cửa" của hệ thống thanh toán quốc gia do Ngân hàng Trung ương quản lý thì tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro không đáng có và gây ảnh hưởng rất lớn đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Ông Lai cho rằng, chính sách cung ứng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất do đó không thể tránh được sự ảnh hưởng xấu trực tiếp đến mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và đến khả năng kiểm soát lạm phát. Nghiên cứu trường hợp nền kinh tế Mỹ Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ năm 2001 Trong năm 2001, nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái ở mức báo động. Dự kiến có khoảng 2,1 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,9% đến 5,8%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá thấp, chỉ 0,8%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1994–2000 là 3,9%. Có 3 nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái kinh tế này: Thị trường chứng khoán giảm dẫn đến tiêu dùng của các hộ gia đình giảm. Vụ khủng bố ngày 11/9 làm tăng tính bất ổn định về chính trị và kinh tế, làm giảm niềm tin trong kinh doanh và tiêu dùng. Các vụ việc liên quan đến hợp nhất của các tập đoàn: Enron, WorldCom, v.v Từ các nguyên nhân đó đã gây ra sự sụt giảm của giá chứng khoán, không khuyến khích 118 ECO102_Bai5_v2.0013107216
  5. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đầu tư, chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư giảm, đường IS dịch chuyển sang trái. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, chính phủ Mỹ đã thực hiện hàng loạt các biện pháp liên quan đến chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như: Đối với chính sách tài khóa: Chính phủ Mỹ đã cắt giảm thuế trong giai đoạn 2001–2003 và tăng chi tiêu của Chính phủ như: Đầu tư vào lĩnh vực hàng không, xây dựng lại NYC, và tăng chi tiêu cho chiến tranh ở Afghanistan war. Kết quả là đường IS dịch chuyển sang phải. Đối với chính sách tiền tệ: Chính phủ hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mua trái phiếu để tăng cung tiền, kết quả là đường LM dịch chuyển sang phải. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng đã làm tăng thu nhập của nền kinh tế Mỹ, đưa nền kinh tế Mỹ dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong các năm tiếp theo. Nguồn: Tác giả tổng hợp ECO102_Bai5_v2.0013107216 119
  6. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ TÓM LƯỢC CUỐI BÀI Sau khi nghiên cứu xong bài 5, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau: Thị trường hàng hoá cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hoá sẽ được một đường gọi là đường IS. Đường IS có độ dốc âm. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc của đường IS càng thoải. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường IS xảy ra là do lãi suất thay đổi. Bất kỳ các yếu tố tự định (các yếu tố của tổng cầu không phụ thuộc vào thu nhập thay đổi) đều làm cho đường IS dịch chuyển song song sang vị trí mới. Các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm bên ngoài đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung). Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng. Đường LM có độ dốc dương. Nếu độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì đường LM càng thoải; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập thay đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái. Các điểm nằm phía trên đường LM biểu thị trạng thái dư cung tiền. Các điểm nằm phía dưới đường LM biểu thị trạng thái dư cầu tiền tệ. Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại một điểm (r0, Y0). Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng, 1 đường IS dịch chuyển sang phải, do tổng cầu tăng thêm một lượng là  G , cầu tiền 1MPC(1t) tăng, đẩy lãi suất tăng. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo lui đầu tư). Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khi đó cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Đường LM dịch chuyển sang phải (xuống dưới), lãi suất cân bằng giảm xuống, đầu tư tăng lên làm cho mức thu nhập cân bằng trong nền kinh tế tăng lên. Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng trong nền kinh tế đóng làm tăng đầu tư, tăng thu nhập của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các công cụ mà Chính phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này. 120 ECO102_Bai5_v2.0013107216
  7. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích cách xây dựng đường IS. 2. Phân tích độ dốc của đường IS và chỉ rõ vai trò của việc phân tích độ dốc của đường IS. 3. Phân tích cách thiết lập đường LM. 4. Phân tích độ dốc của đường LM. 5. Phân tích sự phối hợp giữa chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng trong mô hình IS – LM trong nền kinh tế đóng. ECO102_Bai5_v2.0013107216 121
  8. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ CÂU HỎI ĐÚNG SAI VÀ GIẢI THÍCH TẠI SAO? 1. Nếu MPC tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải. 2. Nếu cầu tiền rất nhạy cảm với thu nhập thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang trái. 3. Nếu cầu tiền nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang phải. 4. Khi chi tiêu tự định của chính phủ tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải. 5. Chính phủ tăng tỷ suất thuế ròng (t) là nguyên nhân làm cho đường IS sẽ dịch chuyển song song sang trái. 6. Khi tiêu dùng tự định tăng lên thì đường IS sẽ thay đổi độ dốc. 7. Khi cung tiền thực tế thay đổi thì đường LM sẽ thay đổi độ dốc. 8. Khi đầu tư tự định thay đổi thì đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu. 9. Khi thu nhập quốc dân tăng lên đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu. 10. Độ dốc của đường IS và đường LM có thể chỉ ra được mức độ tác động của các chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. 11. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh thì Chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc sử dụng chính sách tài khóa nới lỏng phối hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng. 12. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì Chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc áp dụng phối hợp chính sách tài khóa chặt với chính sách tiền tệ chặt. 122 ECO102_Bai5_v2.0013107216
  9. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ BÀI TẬP THỰC HÀNH 1. Trong nền kinh tế mở, giả định tỷ giá hối đoái là cố định không tác động đến các biến số kinh tế khác, có số liệu sau: (đơn vị tỷ USD) C = 50 + 0,75YD T = 0,2Y MD = 0,2 Y – 10r I = 140 – 8r IM = 40 + 0,1Y MS = 137,5 G = 200 X = 200 a. Hãy viết phương trình của đường IS và đường LM. b. Xác định lãi suất cân bằng và mức thu nhâp cân bằng đồng thời của nền kinh tế. Tình trạng của NS Chính phủ tại mức thu nhập cân bằng. c. Để thực hiện tăng chi tiêu của Chính phủ về hàng hoá và dịch vụ thêm 100 tỷ USD, thì mức thu nhập cân bằng và lãi suất cân bằng mới là bao nhiêu? Cho biết tác động của chính sách tài khoá trong trường hợp này và minh hoạ bằng đồ thị. 2. Giả sử trong nền kinh tế đóng có số liệu như sau: Hàm tiêu dùng: C = 200 + 0,75YD Hàm đầu tư: I = 200 – 25r Với r là lãi suất danh nghĩa; chi tiêu của Chính phủ cho hàng hoá và dịch vụ G = 100, thuế T = 100, hàm cầu tiền MD =Y – 100r. Cung tiền MS = 500. a. Xây dựng phương trình đường IS và phương trình đường LM. b. Mức thu nhập và lãi suất cân bằng là bao nhiêu? c. Giả sử chi tiêu của Chính phủ tăng từ 100 lên 150. Viết lại phương trình đường IS và tính lãi suất và thu nhập cân bằng mới là bao nhiêu? d. Giả sử cung ứng tiền tệ tăng từ 500 lên 600, hãy viết lại phương trình đường LM và tính thu nhập và lãi suất cân bằng mới. ECO102_Bai5_v2.0013107216 123
  10. Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ BÀI TẬP LỚN 1. Sử dụng mô hình IS – LM để phân tích tác động của các công cụ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam (với các yếu tố khác như luồng vốn, tỷ giá hối đoái, v.v được coi là không đổi). 124 ECO102_Bai5_v2.0013107216