Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Nội dung
• Đo lường các chỉ tiêu sản lượng của quốc
gia như: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP),
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
• Chỉ ra cách xác định các chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP và
tỷ lệ lạm phát
• Xây dựng các phương pháp xác định
GDP
• Phân tích ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và
GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô
• Phân tích các đồng nhất thức kinh tế vĩ
mô cơ bản
pdf 30 trang hoanghoa 07/11/2022 10620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_2_hach_toan_thu_nhap_quoc_d.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

  1. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.2.1.3. Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam Ở Việt Nam, hàng tháng nhân viên Tổng cục Thống kê cùng các Chi cục Thống kê tại các tỉnh, thành trong cả nước tiến hành quan sát và ghi chép giá cả của các mặt hàng trong từng nhóm hàng thuộc giỏ hàng đã cố định. Khi đã có đầy đủ số liệu, họ tính CPI thông qua việc tính chi cho giỏ hàng hóa và dịch vụ theo giá hiện hành của thời kỳ tính toán. Giá trị tính được này sau đó được đem so sánh với giá trị của giỏ hàng trong thời kỳ cơ sở. Hiện nay, Tổng cục Thống kê tính chỉ số giá tiêu dùng theo công thức Laspeyres, như sau: CPI .d CPI = ∑ i0i ∑d0i Trong đó: CPIi là chỉ số giá cả tiêu dùng tính theo nhóm hàng tiêu dùng i. d0i là quyền số cố định của nhóm hàng i tính theo năm cơ sở/ kỳ gốc. Chỉ số giá tiêu dùng được tính chung cho tất cả các nhóm hàng và tính riêng cho từng nhóm hàng. Khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng. Tổng cục thống kê cố gắng tính tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng điển hình mua. Ngoài ra, họ còn tìm cách gắn quyền số cho những hàng hóa và dịch vụ này theo số lượng của mỗi loại hàng mà người tiêu dùng mua. Quyền số dùng trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng là tỷ trọng chi tiêu cho từng nhóm hàng so với tổng chi tiêu trung bình của một người trong một Thống kê chỉ số tiêu dùng năm, tính bằng tỷ lệ phần trăm. Quyền số được cố định và sử dụng để tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ ngày 1/5/2006, được biểu thị ở bảng 2.7. Bảng 2.7 dưới đây phân tích chi tiêu của người tiêu dùng theo các nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu ở Việt Nam. Nhóm hàng được tiêu dùng nhiều nhất là lương thực và thực phẩm, chiếm tới 42,85% ngân sách của người tiêu dùng điển hình. Nhóm này bao gồm chi tiêu về lương thực chiếm 9,86% và chi tiêu về thực phẩm chiếm 25,2%. Bảng 2.7: Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam Stt Nhóm hàng hóa và dịch vụ (Chỉ số chung) Quyền số (%) 1. Lương thực - thực phẩm 42,85 2. Đồ uống và thuốc lá 4,56 3. May mặc, mũ nón, giày dép 7,21 4. Nhà ở và vật liệu xây dựng 9,99 5. Thiết bị và đồ dùng gia đình 8,62 6. Dược phẩm, y tế 5,42 7. Phương tiện đi lại, bưu điện 9,04 8. Giáo dục 5,41 9. Văn hóa, thể thao, giải trí 3,59 10. Đồ dùng và dịch vụ khác 3,31 Nguồn: Tổng cục Thống kê 43
  2. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.2.2. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator DGDP) Chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hóa và dịch vụ được tính vào GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá của năm cơ sở. Chỉ số điều chỉnh GDP ở những năm sau (thời kỳ sau) phản ánh sự gia tăng của GDP danh nghĩa so với nă m gốc, nó chỉ cho biết sự thay đổi sản lượng do giá thay đổi chứ không cho biết sự gia tăng của GDP thực tế. Do GDP danh nghĩa phải bằng GDP thực tế ở năm cơ sở theo định nghĩa nên chỉ số điều chỉnh GDP ở năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi, các nhà thống kê kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giảm phát ở năm cơ sở là 100 thay vì là 1. Rõ ràng là đọc chỉ số điều chỉnh GDP của năm 2004 là 196,9 dễ hơn là 1,969 (so với năm cơ sở là 1994). Do vậy, tỷ số giữa giá trị của GDP danh nghĩa và GDP thực tế được nhân với 100. Chúng ta có công thức tính chỉ số điều chỉnh GDP là: t t GDPn D1GDP = t ⋅ 00 GDPr Bảng 2.8: Ví dụ về cách xác định giá trị chỉ số điều chỉnh GDP Chỉ tiêu Giai đoạn hiện hành Năm cơ sở Hàng hóa Số lượng Giá ($) Chi tiêu ($) Giá ($) Chi tiêu ($) Cam 4240 1,05 4452 1 4240 Máy tính 5 2100 10500 2000 10000 Bút 1060 1 1060 1 1060 Tổng 16012 15300 Bảng 2.8 mô tả cách xác định chỉ số điều chỉnh GDP. Chúng ta xác định giá trị GDP danh nghĩa và GDP thực tế trước, sau đó tính được: DGDP = (16012/15300) X 100 = 104,7 Chúng ta có thể minh họa những điều đã được đề cập trên bằng một ví dụ đơn giản, đó là nghiên cứu một nền kinh tế tưởng tượng chỉ sản xuất hai hàng hóa cuối cùng là gạo, nước mắm. Đối với mặt hàng gạo, đơn vị đo lường về lượng được tính bằng kg và giá được tính theo đơn vị nghìn đồng một kg. Về mặt hàng nước mắm đơn vị đo lường về lượng được tính bằng lít và giá được tính theo nghìn đồng một lít. Chúng ta tìm hiểu xem các nhà thống kê kinh tế tính toán các chỉ tiêu về GDP danh nghĩa (GDPn), GDP thực tế (GDPr) theo cách tiếp cận chỉ tiêu, chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm (g) như thế nào. Dựa theo các công thức đã nêu và chọn năm 2002 là năm cơ sở chúng ta tính được các chỉ tiêu trên căn cứ vào số liệu ở bảng 2.9. Bảng 2.9: Xác định GDP danh nghĩa, GDP thực tế, và chỉ số điều chỉnh GDP Gạo (kg) Nước mắm (lít) Tính các chỉ tiêu Năm Giá Lượng Giá Lượng GDPn GDPr DGDP 2002 3 1000 7 180 4260 4260 100 2003 4 1200 7,5 190 6225 4930 126,3 2004 5 1350 8 210 8430 5520 152,7 44
  3. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Nhìn vào kết quả tính toán ở bảng 2.9, chúng ta thấy rằng GDP danh nghĩa và GDP thực tế bằng nhau và bằng 4260 trong năm cơ sở là năm 2002. Vì vậy, chỉ số điều chỉnh GDP bằng 100. Trong năm 2003, GDP danh nghĩa là 6225 trong khi GDP thực tế là 4930, chúng ta có chỉ số điều chỉnh GDP là 126,3. Điều này có nghĩa là mức giá chung của nền kinh tế trong năm 2003 đã tăng lên 26,3% so với năm 2002. 2.2.3. Cách tính tỷ lệ lạm phát Tính tỷ lệ lạm phát (π) là công việc cuối cùng, giúp chúng ta hiểu được ứng dụng của CPI trong phân tích kinh tế. Cụ thể, chúng ta dùng CPI để tính tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung theo thời gian. Do vậy, tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi của mức giá chung so với thời kỳ trước đó. Trong ví dụ này, tỷ lệ lạm phát hay tốc độ tăng giá của giỏ hàng tiêu dùng của năm sau so với năm trước được tính bằng công thức sau: CPItt-1 -CPI πt = ×100% Tỷ lệ lạm phát CPIt-1 Trong đó, πt là tỷ lệ lạm phát năm t, và CPIt là chỉ số giá tiêu dùng năm t. Ở ví dụ trên, tỷ lệ lạm phát tính được của chúng ta là 19% trong năm 2003 và 28% trong năm 2004 hay mức giá chung của giỏ hàng hóa đã tăng lên 19% trong năm 2003 và 28% trong năm 2004. Điều này cũng có nghĩa là so với năm 2002, chi phí người tiêu dùng điển hình phải bỏ ra để mua cùng một giỏ hàng đã tăng lên 19% trong năm 2003 và tiếp tục tăng lên thêm 28% trong năm 2004. Bảng 2.10: Xác định tỷ lệ lạm phát dựa vào chỉ số điều chỉnh GDP (theo bảng 2.9) Gạo (kg) Nước mắm (lít) Tính các chỉ tiêu Năm t Giá Lượng Giá Lượng GDPn GDPr DGDP π 2002 3 1000 7 180 4260 4260 100 - 2003 4 1200 7,5 190 6225 4930 126,3 26,3% 2004 5 1350 8 210 8430 5520 152,7 20,9% 2.3. Các chỉ tiêu đo lường khác 2.3.1. Lãi suất và tỷ lệ lãi suất thực tế Hiệu chỉnh các biến số kinh tế khỏi ảnh hưởng của lạm phát cũng diễn tra trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, cụ thể đối với lãi suất tiền gửi và tiền vay. Khi gửi tiền tiết kiệm vào tài khoản ở ngân hàng người ta nhận được một khoản tiền lãi từ khoản tiền vay. Trái lại, khi vay tiền của ngân hàng để kinh doanh hoặc mua sắm hàng tiêu dùng người ta phải trả lãi cho khoản tiền vay đó. Như vậy, lãi suất thể hiện một khoản thanh toán trong tương lai cho một sự chuyển giao tiền trong quá khứ. Bởi vậy, lãi suất luôn liên quan đến việc so sánh các khoản tiền tại các thời điểm khác nhau. 45
  4. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Giao dịch tại Ngân hàng Để dễ hiểu chúng ta xem xét một ví dụ. Giả sử anh A gửi một khoản tiền là 10 triệu đồng vào ngân hàng Techcombank với lãi suất hàng năm là 10%. Sau một năm, anh A nhận được 1 triệu tiền lãi hay số lượng đồng mà anh A có tăng lên 10%. Rút toàn bộ số tiền cả gốc và lãi, anh A có 11 triệu đồng. Có đúng anh A được lợi một số tiền là 1 triệu đồng so với số tiền 10 triệu mà anh A gửi vào một năm trướ c đây không? Đúng là số lượng tiền anh A nhận được này tăng lên 10%. Tuy nhiên, giá hàng hóa trong năm đã tăng lên 9,5% nên mỗi đồng bây giờ mua được ít hàng hóa hơn trước hay sức mua của anh A không tăng lên 10%. Thực tế, lượng hàng hóa mà anh A mua được chỉ tăng thêm 0,5%. Nếu lạm phát cao hơn 10%, giả sử là 12%, thì sức mua thực tế của anh A đã giảm 2%. Lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền được gọi là lãi suất danh nghĩa (Nominal Interest Rate – ký hiệu là i) và lãi suất đã trừ tỷ lệ lạm phát gọi là lãi suất thực tế (Real Interest Rate – ký hiệu là r). Từ đó chúng ta có thể mô tả mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế dưới dạng công thức sau: r = i – π Như vậy, lãi suất thực tế là khoản chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa cho biết số đồng tiền tăng lên như thế nào qua thời gian trong khi lãi suất thực tế cho biết sức mua của tài khoản ngân hàng tăng lên như thế nào qua thời gian. Trên thực tế, lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế không phải luôn biến đổi chiều theo thời gian. Trong 2 năm 2004 và 2005, mặc dù lãi suất danh nghĩa cao và luôn được điều chỉnh cao hơn nhưng lãi suất thực tế lại rất thấp và thậm chí giảm xuống thành lãi suất âm. Đó là tình huống lạm phát cao và lạm phát gia tăng đã giảm giá trị của khoản tiền tiết kiệm nhanh hơn lãi suất danh nghĩa tăng giá trị của khoản tiền này. 2.3.2. Đo lường tỷ lệ thất nghiệp Thống kê việc làm và thất nghiệp là một trong những số liệu kinh tế được mọi người quan tâm nhất. Thứ nhất là một nền kinh tế vận hành tốt sẽ sử dụng hết các nguồn lực hiện có. Thất nghiệp có thể là tín hiệu cho biết các nguồn lực dư thừa, do đó chỉ ra nền kinh tế có thể có những vấn đề trong việc vận hành. Thứ hai là thất nghiệp được mọi người đặc biệt quan tâm bởi vì đó là vấn đề Kinh tế Vĩ mô ảnh hưởng đến con người trực tiếp nhất và nghiêm trọng nhất. Tỷ lệ thất nghiệp 46
  5. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Thước đo thất nghiệp dựa trên cơ sở phân loại dân số hoạt động kinh tế (tính từ đủ 15 tuổi trở lên): POP = E + U + NL Trong đó, POP là dân số hoạt động kinh tế, E là số người có việc, U là số người thất nghiệp, và NL là những người không nằm trong lực lượng lao động. Do đó, chúng ta có: L = U + E Trong đó: L là lực lượng lao động. L/POP là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (là phần trăm của dân số hoạt động kinh tế nằm trong lực lượng lao động). Tỷ lệ có việc (em) và tỷ lệ thất nghiệp (u) được xác định như sau: E e = m L U u1e==− L m 2.3.3. Tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm Chính phủ Tiết kiệm tư nhân là phần còn lại của thu nhập sau khi đã tiêu dùng. Tiết kiệm của Chính phủ chính là cán cân ngân sách của Chính phủ; nó là phần còn lại của nguồn thu ngân sách sau khi Chính phủ đã chi tiêu trong năm tài khóa. Trong nền kinh tế giản đơn, nền kinh tế chỉ có hai tác nhân kinh tế là hộ gia đình và hãng kinh doanh thì tiết kiệm Chính phủ không tồn tại, chỉ có tiết kiệm tư nhân. Khi đó, giả sử gọi SP là tiết kiệm của các hộ gia đình thì SP chính bằng đầu tư tư nhân (I) và cũng đúng bằng tiết kiệm quốc dân. Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ (nền kinh tế đóng), nếu gọi tiết kiệm của Chính phủ là SG thì tiết kiệm quốc dân là SN = SG + SP; trong đó, tiết kiệm khu vực tư nhân (SP) = thu nhập có thể sử dụng (YD) – chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của các hộ gia đình (C); tiết kiệm của Chính phủ cũng chính là cán cân ngân sách Chính phủ (B = T – G). 2.4. Các phương pháp xác định GDP 2.4.1. Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô Trong nền kinh tế, các tác nhân đã tạo nên mối quan hệ chằng chịt trong việc tạo ra các hàng hoá và dịch vụ. Để đơn giản cho việc tính toán, người ta chỉ xem xét mô hình kinh tế giản đơn có hai tác nhân tham gia là hộ gia đình và hãng kinh doanh. Mô hình đó chính là sơ đồ luân chuyển Kinh tế Vĩ mô: Hàng hóa dịch vụ Chỉ tiêu của hộ gia đình Khu vực Khu vực hộ gia Doanh đình nghiệp Yếu tố đầu vào Thu nhập của hộ gia đình Hình 2.1. Sơ đồ dòng luân chuyển Kinh tế Vĩ mô 47
  6. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thật: Hàng hoá và dịch vụ từ các hãng kinh doanh sang hộ gia đình và dịch vụ về yếu tố sản xuất từ hộ gia đình sang các hãng kinh doanh. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền: Các hãng kinh doanh trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất tạo nên thu nhập của các hộ gia đình; các hộ gia đình thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ. Sơ đồ trên với giả định: Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ bằng tổng lượng tiền mà các hộ gia đình trả cho các hãng để mua hàng hoá và dịch vụ, gợi cho ta hai cách tính khối lượng sản phẩm trong một nền kinh tế, do đó: • Nửa trên của sơ đồ là cơ sở của phương pháp tính giá trị hàng hoá và dịch vụ theo luồng sản phẩm. • Nửa dưới của sơ đồ là cơ sở của phương pháp tính giá trị hàng hoá và dịch vụ theo luồng thu nhập. 2.4.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (còn được gọi là theo luồng sản phẩm) Qua sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cho thấy, có thể xác định GDP theo giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền kinh tế. Chúng ta gọi tắt là phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm. Tuy nhiên, sơ đồ trên quá đơn giản. Ở đây chúng ta sẽ mở rộng sơ đồ đó, tính tới cả khu vực Chính phủ và xuất nhập khẩu. Theo phương pháp luồng sản phẩm, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng, mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh và Chính phủ mua; và khoản xuất khẩu ròng được thực hiện trong một đơn vị thời gian (một năm). Công thức tính: GDP = C + I + G + X – IM Cấu thành của GDP theo phương pháp này bao gồm: • Tiêu dùng của hộ gia đình (C): Tiêu dùng của hộ gia đình (C) bao gồm tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng trong đời sống hàng ngày của họ như chi để mua cam, chuối, bánh kẹo, thực phẩm, chi cho phương tiện giao thông, v.v Như vậy, GDP chỉ bao gồm những sản phẩm được bán và bỏ sót nhiều hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình tự sản xuất để tiêu dùng mà không phải để bán, hoặc những hàng hoá dịch vụ, nhìn chung không được Tiêu dùng của hộ gia đình mua bán trên thị trường nhưng rất cần thiết cho đời sống của gia đình. Chẳng hạn, nông sản cho các gia đình nông dân tự sản xuất, tự chi tiêu; công việc của các nhà nội trợ, một bữa tiệc do các thành viên gia đình tự làm lấy, v.v Tuy nhiên, tổng hợp các khoản chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình ghi chép cũng đã chiếm vào khoảng 60% – 70% GDP của một đất nước. • Đầu tư (I): Tổng sản phẩm không chỉ bao gồm các hàng hoá tiêu dùng của các hộ giá đình mà còn bao gồm cả hàng hoá đầu tư mà các hãng kinh doanh mua sắm để tái sản xuất mở rộng. Hàng hoá đầu tư bao gồm trang thiết bị là các tài sản cố định của doanh nghiệp, nhà ở, văn phòng mới xây dựng và chênh lệch hàng tồn kho của các hãng kinh doanh. 48
  7. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Như vậy, khái niệm đầu tư ở đây khác với khái niệm đầu tư nói chung. Đầu tư, theo cách hiểu của các nhà kinh tế, ứng dụng trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội là việc mua sắm các tư liệu lao động mới nhằm tạo ra tư bản dưới dạng hiện vật như nhà máy mới, công cụ mới, Không nên nhầm lẫn khái niệm trên với quan niệm đầu tư củ a các nhà kinh doanh, như việc sử dụng vốn để mua cổ phần, cổ phiếu hay mở một tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng. Đó chỉ là hành động thay đổi thành phần tính tài sản của cá nhân hay doanh nghiệp, không làm cho tổng sản phẩm cố định của đất nước tăng lên. Tổng đầu tư là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ phần đã hao mòn trong quá trình sản xuất. Còn đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi khấu hao tài sản cố định (còn gọi là tiêu dùng cơ bản). Đầu tư ròng = Tổng đầu tư – Hao mòn tài sản cố định Trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội, ta tính tổng đầu tư chứ không phải đầu tư ròng. Cuối cùng như đã nêu ở trên, trong thành phần của đầu tư còn có khoản chênh lệch về hàng tồn kho. Vậy hàng tồn kho là gì? Hàng tồn kho hay dự trữ là những hàng hoá được giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Thực chất của hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những vật liệu hay các yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ được sử dụng trong chu kỳ sản xuất tới, hoặc các thành phẩm chờ bán ra trong thời gian tới. Nhưng, theo quy định, chúng được xếp vào hàng hoá đầu tư, khi tính toán tổng sản phẩm quốc nội. Tóm lại, khái niệm đầu tư là một khái niệm phức tạp. Khái niệm này chỉ rõ phần tổng sản phẩm quốc nội – hay một phần của khả năng sản xuất của xã hội – dùng để tạo vốn cơ bản (vốn cố định) cho nền kinh tế, chứ không phải để tiêu dùng cho hiện đại. Đầu tư có tác dụng tái sản xuất mở rộng, như vậy cũng có tác dụng tăng tiêu dùng trong tương lai. Đầu tư là việc giảm tiêu dùng trong tương lai, là kết quả của quá trình tích luỹ: tích luỹ từ khu vực tư nhân và khu vực Chính phủ. • Chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ (G): Chính phủ cũng là một tác nhân kinh tế – một người tiêu dùng lớn nhất. Hàng năm, Chính phủ các nước phải chi tiêu những khoản tiền rất lớn vào việc xây dựng đường xá, trường học, bệnh viện, quốc phòng, an ninh và trả lương cho bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Toàn bộ chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ đều được tính vào luồng sản phẩm. Ký hiệu là (G). Những khoản chi tiêu sau không được tính vào GDP: Những khoản thanh toán chuyển nhượng, ký hiệ u TR, bao gồm: Bảo hiểm xã hội cho người già, tàn tật, những người thuộc diện chính sách, trợ cấp thất nghiệp, v.v Những khoản này chi ra nhưng không tương ứng với một hàng hoá và dịch vụ nào mới được sản xuất ra trong nền kinh tế, do đó không làm tăng GDP. Chi tiêu của Chính phủ được tài trợ chủ yếu bằng thuế (ký hiệu TA). TA bao gồm 2 loại: Trực thu và gián thu. Nhưng khi tính GDP theo cung trên tức là tính theo luồng hàng hoá và dịch vụ, chúng ta chưa cần quan tâm xử lý vấn đề thuế khoá. Vì rằng, bản thân giá cả thị trường đã bao gồm trong đó các loại thuế gián thu, đánh vào hàng hoá tiêu dùng. • Xuất và nhập khẩu (X và IM): Hàng xuất khẩu là những hàng hoá được sản xuất ở trong nước, nhưng được bán ra cho người tiêu dùng ở nước ngoài. Hàng nhập khẩu là những hàng được sản xuất ở nước ngoài, nhưng được mua để phục vụ tiêu dùng nội địa. 49
  8. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Căn cứ vào quan điểm đó, ta thấy hàng xuất khẩu làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trái lại hàng nhập khẩu không nằm trong sản lượng nội địa, do đó cần phải được trừ đi khỏi khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và Chính phủ đã mua và tiêu dùng. Ví dụ: Giả sử GDP = 3000, C = 1700, G = 50, thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài bằng 0 và NX = 40. 1. Mức đầu tư trong nền kinh tế bằng bao nhiêu? I = GDP – C – G – NX = 2000 – 1790 = 1210 2. Giả sử xuất khẩu bằng 350, nhập khẩu bằng bao nhiêu? IM = X – NX = 350 – 40 = 310 3. Giả sử mức khấu hao bằng 130, NNP bằng bao nhiêu? NNP = GDP – DP = 3000 – 130 = 2870 2.4.3. Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập (phương pháp chi phí đầu vào) Khác với phương pháp trên, tính GDP theo giá trị sản phẩm đầu ra, phương pháp này tính GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất, mà các doanh nghiệp phải thanh toán, như tiền công, tiền trả lãi do vay vốn, tiền thuê nhà, thuê đất và lợi nhuận – phần thưởng cho sự mạo hiểm trong kinh tế. Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải thanh toán trở thành thu nhập của công chúng. Sản xuất trong doanh nghiệp Gọi: Chi phí tiền công, tiền lương là w Chi phí thuê vốn (Lãi suất) là i Chi phí thuê nhà, thuê đất là r Lợi nhuận là π Công thức chung xác định GDP theo yếu tố chi phí trong trường hợp đơn giản nhất, tức là trường hợp nền kinh tế chỉ bao gồm các hộ gia đình và các doanh nghiệp, chưa tính tới khấu hao như sau: GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất = w + i + r + π Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ và khu vực nước ngoài, khi tính GDP theo phương pháp này cần có hai điều chỉnh: 50
  9. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân • Một là, vì GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất chưa tính đến khoản thuế mà Chính phủ đánh vào hàng hoá tiêu dùng thu qua doanh nghiệp. Đó là thuế gián thu (Te). • Hai là, GDP tính theo yếu tố sản xuất chưa tính đến hao mòn tài sản cố định. Vì rằng hao mòn tài sản cố định không tương ứng với khoản thu nhập nào của hộ gia đình. Chi phí khấu hao tài sản cố định phát sinh, các hãng phải bù đắp các hao mòn bộ phận hay toàn bộ tài sản cố định. Khi tính GDP ta phải thêm vào công thức trên Xác định GDP theo giá trị phần thuế gián thu (Te) và phần khấu hao ită tài sản cố định (Dp): GDP = w + i + r + π + Te + Dp 2.4.4. Phương pháp xác định GDP theo giá trị gia tăng GDP là tổng giá trị của hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nước. Nhưng để các hàng hoá cuối cùng đến tay người tiêu dùng, chúng ta phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất. Mỗi công đoạn, mỗi doanh nghiệp chuyên môn hoá chỉ đóng góp một phần giá trị của mình để tạo ra một hàng hoá hoặc dịch vụ hoàn chỉnh. Vì vậy, khi tính GDP theo cung dưới – luồng thu nhập hoặc chi phí cần rất thận trọng để tránh tính trùng. Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị của sản lượng của một doanh nghiệp với khoản mua vào về vật liệu và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác, mà đã được dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng đó. Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, được tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng; khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu. Thuế giá trị gia tăng được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng và được viết tắt là VAT (Value Added Tax). Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp là số đo phần đóng góp của doanh nghiệp đó vào tổng sản lượng của nền kinh tế. Tổng giá trị gia tăng của mọi đơn vị sản xuất và dịch vụ trong vòng một năm là tổng sản phẩm quốc nội GDP. Như vậy, để tránh tính trùng, cần chú ý chỉ đưa vào tổng sản phẩm quốc nội những hàng hoá cuối cùng, loại bỏ các hàng hoá trung gian dùng để tạo nên hàng hoá cuối cùng đó; hoặc chỉ cộng giá trị gia tăng ở từng giai đoạn của sản xuất. Cộng giá trị gia tăng của các đơn vị sả n xuất trong cùng một ngành, rồi cộng giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế, chúng ta thu được một con số đúng bằng GDP. Ví dụ 1: Giả sử trong một nền kinh tế chỉ có 5 doanh nghiệp là: nhà máy thép, xí nghiệp cao su, xí nghiệp cơ khí, xí nghiệp bánh xe và xí nghiệp xe đạp. Nhà sản xuất xe đạp bán xe đạp của anh ta cho người tiêu dùng cuối cùng với giá 8000. Trong quá trình sản xuất xe đạp, anh ta đã mua bánh xe với giá 1000, thép với giá 2500 và một số máy móc trị giá 1800 của xí 51