Chủ nghĩa xã hội thị trường? Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa?

Trong khi có sự thống nhất rộng rãi liên quan đến ý nghĩa của từ thị trường, thì lại xuất
hiện những khó khăn lớn liên quan đến khái niệm xã hội chủ nghĩa. Có nhiều cách giải nghĩa.
Đây không phải là những sự khác biệt quan điểm ngôn ngữ theo kiểu chẻ sợi tóc làm tư. Trên
bề mặt có vẻ là các ý kiến đối chọi nhau về sự giải nghĩa của một từ duy nhất. Thực ra, sự
chia rẽ sâu sắc về lựa chọn giá trị chính trị, về các viễn cảnh khả dĩ của “xã hội tốt”, về vạch
ra chiến lược dẫn đến việc thiết lập trật tự mới, đã đè nặng một cách nghiêm trọng lên cuộc
tranh luận khái niệm. Cuộc tranh luận không phải là về các từ, mà là sự đối chọi của những
hùng biện chính trị khác nhau và của các ý thức hệ khác nhau.4
Tôi trình bày năm cách giải nghĩa của từ xã hội chủ nghĩa. Có nhiều loại giải nghĩa hơn,
nhưng phần lớn những cách giải nghĩa đó có thể được mô tả bằng một sự pha trộn hay sự kết
hợp của năm trường hợp “thuần khiết” mà tôi sẽ trình bày, hoặc như một trạm dừng tạm thời
hay chuyển tiếp giữa các trường hợp thuần khiết này. 
pdf 19 trang hoanghoa 07/11/2022 8160
Bạn đang xem tài liệu "Chủ nghĩa xã hội thị trường? Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfchu_nghia_xa_hoi_thi_truong_nen_kinh_te_thi_truong_xa_hoi_ch.pdf

Nội dung text: Chủ nghĩa xã hội thị trường? Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa?

  1. sản. Sự thực là, chúng ta chứng kiến quyền lực không thể chia sẻ của đảng cộng sản. Đây là chế độ, trong đó đảng cộng sản có độc quyền chính trị hoàn toàn. Họ không chỉ loại trừ, mà còn truy nã và trấn áp một cách tàn bạo mọi lực lượng chính trị ganh đua. Sở hữu. Một đặc trưng căn bản của hệ thống là trên thực tế tất cả tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu công. Việc tịch thu tài sản tư nhân, quốc hữu hoá và tập thể hoá là một thành tố trung tâm của cương lĩnh ngay cả trước khi giành được quyền lực, và vẫn tiếp tục là nhiệm vụ trung tâm sau khi giành được quyền lực. Họ thực hiện cương lĩnh một cách nhất quán và với sức mạnh tàn bạo. Tuy các hòn đảo nhỏ bé của sở hữu tư nhân vẫn còn, thế nhưng quy mô của chúng hầu như không đáng kể, nếu so sánh với quy mô của sở hữu công chiếm ưu thế. Lập trường leninist đối lập gay gắt với sở hữu tư nhân. Nó nhìn vào ngay cả những tàn tích nhỏ bé của sở hữu tư nhân cũng với tâm trạng thù địch và ngờ vực. “Sản xuất hàng hóa nhỏ, tự nó và với quy mô hàng loạt, sinh ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản một cách liên tục, từng giờ, từng ngày.” (Lenin, 1920, 1974. tr. 6). Điều phối. Ưu thế của chỉ huy tập trung (hay trúng hơn chúng ta có thể nói, của quản lý tập trung) đã thay thế vai trò ưu thế của thị trường. Hình thức điều phối này thường được gọi là “kế hoạch hoá tập trung”. Chúng ta cho một phân tích chính xác hơn, nếu chúng ta gọi như thế này: điều phối quan liêu, kiểm soát (control) tập trung, hệ thống hay “nền kinh tế mệnh lệnh” (command economy) cưỡng ép việc thực hiện các mệnh lệnh. Họ không có khả năng tiêu diệt hoàn toàn điều phối thị trường. Nó đóng chút ít vai trò – một mặt một cách hợp pháp (trong khuôn khổ hẹp, phụ thuộc, được cho phép), mặt khác trong các hình thức khác nhau của “nền kinh tế xám” hay “đen”. Hệ tư tưởng. Họ coi chủ nghĩa Marx (muộn hơn chủ nghĩa Marx-Lenin, và muộn hơn nữa chủ nghĩa Marx-Lenin-Stalin hay chủ nghĩa Mao) là linh thiêng, thần thánh, là bất khả xâm phạm. Dù nó không có khả năng đạt tới sự độc quyền tuyệt đối trong đầu của tất cả mọi người, nó chiếm vị trí độc quyền trong giáo dục, trong mọi xuất bản hợp pháp, trong các phương tiện truyền thông, v.v và v.v. Hệ tư tưởng chính thống bác bỏ mọi tư tưởng thân thiện với chủ nghĩa tư bản, với sở hữu tư nhân và với thị trường. Theo hệ tư tưởng chính thống, hệ thống này là hệ thống duy nhất có quyền tự gọi mình là “chủ nghĩa xã hội”. Lập trường marxist-leninist-stalinist-maoist liên quan đến chủ nghĩa xã hội tuyệt nhiên không tương hợp với sự chấp nhận bất cứ vai trò loại nào đó của thị trường. 10
  2. Giải nghĩa thứ tư. Quan niệm xã hội dân chủ về chủ nghĩa xã hội Đầu tiên ở đây chúng ta bàn về thời kỳ bao hàm một trăm năm đầu (hay dài hơn) của [phong trào] dân chủ xã hội, cho đến tận các năm 1980. Chúng ta bỏ qua 20-25 năm cuối, trong thời gian đó đã xảy ra những thay đổi đáng chú ý trong tư duy dân chủ xã hội. Cái mô hình lơ lửng trước mắt tôi là hệ thống của Thuỵ Điển và các nước Scandinavian khác, rồi trong thời kỳ lịch sử muộn hơn là hệ thống của Tây Đức và các nước Tây Âu khác. Phong trào dân chủ xã hội theo các nguyên tắc xác định trong thời kỳ và ở các nước mà tôi xem xét. Họ chấp nhận và áp dụng các nguyên tắc này, nếu họ lên nắm quyền, nhưng cũng tôn trọng và tuyên truyền chúng khi không cầm quyền, tức là trước khi họ giành chính quyền, hay sau khi họ thua một cuộc bầu cử. Cơ cấu chính trị. Là người dân chủ xã hội có nghĩa rằng phải chấp nhận nền dân chủ đại nghị vô điều kiện. Đường ranh giới sắc nét vạch ra chính xác ở đây giữa hai phong trào lớn được tuyên bố với khẩu hiệu của chủ nghĩa xã hội. Những người cộng sản muốn “chủ nghĩa xã hội” bằng mọi giá. “Tốt, nếu giành được chính quyền bằng con đường bầu cử. Nhưng nếu cách này không được, thì hãy giành lấy quyền lực bằng cách mạng, bằng bạo lực, bằng cách cưỡng bức ý chí của đảng lên nhân dân!” Các nhà dân chủ xã hội muốn thực hiện “chủ nghĩa xã hội” riêng “của họ”, theo hình dung của họ, khi và chỉ khi, nếu đa số nhân dân ủng hộ cương lĩnh của họ, và bỏ phiếu cho đảng của họ. Đảng cộng sản, nếu đã lên nắm quyền, không muốn từ bỏ quyền lực, cũng chẳng từ bỏ ngay cả trong trường hợp rõ ràng là đa số nhân dân không ủng hộ. Không chịu đặt mình dưới sự thử thách của bầu cử quốc hội dựa trên sự cạnh tranh của các đảng chính trị. Ngược hoàn toàn với cách này, đảng dân chủ xã hội sẵn sàng từ bỏ quyền lực, nếu kết quả bầu cử chứng tỏ rằng họ đã mất sự ủng hộ của đa số. Sự chia rẽ giữa những người leninist và những người dân chủ xã hội bắt đầu bằng các cuộc tranh luận nóng bỏng được tiến hành về chế độ chuyên chế và cạnh tranh chính trị, về vai trò của quốc hội và bầu cử. Cho đến tận ngày nay, đây là tiêu chuẩn chính để chúng ta phân biệt cách giải nghĩa thứ ba và thứ tư về xã hội chủ nghĩa. Sở hữu. Lập trường về vấn đề sở hữu - từ chối sở hữu tư nhân “ngay lập tức chẳng cần suy nghĩ”- là xa lạ đối với dân chủ xã hội. Các nhà dân chủ xã hội theo lối cũ đã bác bỏ các phương pháp thô bạo để tịch thu tài sản tư nhân. Tuy nhiên ở một số nước, thí dụ Vương quốc Anh, họ có khuynh hướng cho việc quốc hữu hoá một vai trò đáng kể. Kinh nghiệm thế giới 11
  3. (và đặc biệt ở Liên Xô và Đông Âu một thời) đã gây ra những ngờ vực về liệu các ngành công nghiệp được quốc hữu hoá có khả năng hoạt động hữu hiệu hay không. Theo mức lan rộng của sự vỡ mộng [với việc quốc hữu hoá], thì các nhà dân chủ xã hội từng bước từ bỏ các kế hoạch quốc hữu hoá của họ, và chấp nhận ưu thế của sở hữu tư nhân. Cái vẫn tiếp tục được duy trì thuộc sở hữu công (đa phần thuộc sở hữu của chính quyền tự trị địa phương) là phần đáng kể của khu vực giáo dục và y tế. Điều phối. Các nhà dân chủ xã hội không do dự chấp nhận thị trường là cơ chế điều phối chính của các hoạt động kinh tế. Thế nhưng họ không tin vào thị trường hoàn toàn tự do, không bị bất cứ sự điều tiết hay can thiệp nào. Ngược lại, họ nhất quyết dùng quyền lực nhà nước cho việc tái phân phối thu nhập. Thành quả vĩ đại của sự ảnh hưởng chính trị của họ là nhà nước phúc lợi hiện đại, với tất cả các nét đặc điểm nổi tiếng của nó: thuế luỹ tiến, giáo dục và dịch vụ y tế không mất tiền hay được trợ cấp lớn của nhà nước, hệ thống hưu bổng nhà nước rộng khắp, bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ tiền bạc cho những người rất nghèo v.v. Quy mô của nhà nước phúc lợi trong những ngày này dù có gây ra những mối lo ngại ngân sách đến đâu, các nhà dân chủ xã hội cố gắng duy trì nó, họ cảm thấy: đây là kết quả chủ yếu nhất của cuộc đấu tranh chính trị của họ, khi họ đấu tranh trên nghị trường với tư cách đối lập, hay khi họ nắm chính quyền sau khi thắng trong cuộc bầu cử. Tóm tắt các nhận xét liên quan đến sở hữu và cơ chế điều phối, chúng ta đi đến các kết luận sau đây. Các nhà dân chủ xã hội không muốn tạo ra một “hệ thống xã hội chủ nghĩa” mới, khác căn bản với chủ nghĩa tư bản. Họ nỗ lực cải cách hệ thống tư bản chủ nghĩa hiện tồn. Nói cách khác, họ muốn thấy một biến thể, một loại của hệ thống tư bản chủ nghĩa sát hơn với các lý tưởng chính trị và đạo đức của họ. Điều này bao gồm những việc sau đây: − tái phân phối rộng rãi, vì lẽ công bằng và bình đẳng; − thiết lập, duy trì và phát triển các định chế của nhà nước phúc lợi hiện đại (hệ thống chăm sóc sức khoẻ quốc gia, giáo dục không mất tiền, lương hưu cho mọi công dân [đến tuổi hưu], v.v.) Dân chủ xã hội hiện đại tìm những con đường mới để khắc phục những lo ngại tài khoá trầm trọng đi cùng với trách nhiệm do nhà nước phúc lợi gánh vác. Các vấn đề tiếp tục trầm trọng hơn do áp lực của những thay đổi nhân khẩu học, thêm nữa do tác động của toàn cầu hoá và tác động của những hoàn cảnh mới nảy sinh trên thị trường lao động mà công nghệ 12
  4. thông tin và truyền thông mới mang lại.7 Tuy thế, tiếp tục còn các thành phần nhất định của cách tiếp cận truyền thống dân chủ xã hội về tái phân phối và về gánh vác trách nhiệm phúc lợi. Hệ tư tưởng. Các lý tưởng, các giá trị và các mục tiêu dân chủ xã hội gắn mật thiết với nhà nước phúc lợi và các quá trình chính trị dân chủ. Một trăm năm trước bắt đầu diễn ra cuộc tranh luận giữa hai “người cha” sáng lập; một bên là Lenin, người đứng đầu trào lưu cộng sản muộn hơn của trong trào xã hội chủ nghĩa, còn bên kia là Karl Kautsky, một trong những nhân vật có uy tín nhất trong số các lãnh tụ của trào lưu dân chủ xã hội muộn hơn.8 Khi đó cả hai bên bất đồng quan điểm vẫn đều dẫn chiếu đến Marx như nguồn lý luận chung và người có uy quyền lớn nhất. Với thời gian trôi đi, các nhà dân chủ xã hội ngày càng xa Marx hơn, và sau chiến tranh thế giới lần thứ hai họ hoàn toàn đoạn tuyệt mọi quan hệ ý thức hệ mà trước đây đã gắn kết họ với chủ nghĩa Marx. Các nhà dân chủ xã hội Đức tại hội nghị ở Bad Godesberg năm 1959 đã mở ra một chương mới trong lịch sử phong trào của họ. Phong trào dân chủ xã hội châu Âu đã công khai từ bỏ chủ nghĩa Marx, và bỏ quốc hữu hoá khỏi các điểm căn bản của cương lĩnh của mình. Sớm muộn tất cả các đảng dân chủ xã hội đã theo tấm gương Đức (Hodge, 1993, Przeworski, 1985).* Bây giờ chúng ta chuyển sang vấn đề của Trung Quốc và Việt Nam! Giải nghĩa thứ năm. Giải nghĩa hiện thời của Trung Quốc và Việt Nam về chủ nghĩa xã hội? Có thể thấy dấu hỏi ở cuối tiêu đề phụ, bởi vì tôi chỉ muốn nêu ra câu hỏi, và tôi không thử đưa ra câu trả lời. Nếu có câu trả lời đi nữa, [câu trả lời] chưa chắc giống nhau ở Trung Quốc và ở Việt Nam. Thế nhưng, hãy gạt sang một bên sự khác nhau trong diễn giải khái niệm chủ nghĩa xã hội giữa hai nước này. Ngay cả khi câu trả lời là khác nhau đi nữa, hợp lý nêu ra cùng câu hỏi cho cả hai nước này. 7 Có tồn tại hay không một “con đường thứ ba” mới? Nghiên cứu vấn đề này là một phần của các nỗ lực mà các nhà dân chủ xã hội hiện đại muốn hiện đại hoá và hiệu chỉnh các mục tiêu truyền thống của họ cho hợp với các điều kiện kinh tế mới của thế giới hiện nay (xem Giddens, 2000). 8 Cuộc tranh luận lên đỉnh điểm, khi Kautsky trình bày quan điểm dân chủ xã hội, còn Lenin thì trả lời với sự tấn công vũ bão trong Nhà nước và Cách mạng và Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky (Lenin, 1917, 1973 và 1918, 1977). * Trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay vấn đề tăng cường sự điều tiết, can thiệp của nhà nước lại được đặt ra cùng với các công cụ tự động ổn định của nhà nước phúc lợi (như bảo hiểm thất nghiệp). Đảng dân chủ Mỹ với kế hoạch cải cách y tế to lớn của mình cũng đã có những bước đi nhất định theo hướng nhà nước phúc lợi châu Âu. 13
  5. Trong khi tôi không nhận việc đưa ra câu trả lời, tôi cố gắng đưa ra vài nhận xét phủ định. Phần cho đến đây của tiểu luận đã phác hoạ bốn loại giải nghĩa thuật ngữ chủ nghĩa xã hội. Cái có thể thấy bây giờ ở Trung Quốc và Việt nam – tình trạng hiện thời và sự hình thành sắp tới của sự vật – trong tương lai gần chẳng giống với một trong bốn loại nào cả. Liên quan đến giải nghĩa thứ nhất – Marx là kẻ thù lớn tiếng của sở hữu tư nhân, và biểu lộ sự hoài nghi sâu sắc đối với thị trường. Ngược lại với điều này ở Trung Quốc và Việt Nam người ta để cho khu vực tư nhân phát triển nhanh, và bây giờ đã tạo ra phần lớn hơn của GDP. Tỷ lệ phần đóng góp của nó ngày càng tăng, trong khi tỷ lệ của khu vực công hữu co lại. Phần áp đảo của cơ chế điều phối do thị trường đảm nhiệm. Cả Trung Quốc, lẫn Việt Nam không còn là chế độ xã hội chủ nghĩa nữa, nếu chúng ta áp dụng cách giải nghĩa của Marx về chủ nghĩa xã hội. Liên quan đến giải nghĩa thứ hai – Trung Quốc và Việt Nam không thể được coi là sự thể hiện lịch sử của kết cấu lý thuyết kiểu Lange. Trong thế giới được trừu tượng hoá của Lange các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu công. Lange đã có nỗ lực trí tuệ lớn để chứng minh rằng thị trường có khả năng đóng vai trò điều phối mà không có sở hữu tư nhân. Đúng, trong thế giới thật của Trung Quốc và Việt Nam thị trường đã trở thành cơ chế điều phối chính. Có thể, đây là sự thay đổi có tác dụng tốt, thế nhưng – bởi vì đã diễn ra những thay đổi sâu sắc trong cơ cấu sở hữu – trạng thái hiện thời chẳng liên quan gì đến cái ảo ảnh mà trường phái trí tuệ “chủ nghĩa xã hội thị trường” phác hoạ cả. Liên quan đến giải nghĩa thứ ba – Trung Quốc và Việt Nam vẫn duy trì một nét đặc trưng quan trọng đặc biệt của chủ nghĩa xã hội theo cách giải nghĩa leninist. Cơ cấu chính trị về cơ bản không thay đổi. Đảng cộng sản vẫn giữ độc quyền chính trị. Nhà nước đảng có quyền lực toàn trị vô hạn. Không có cạnh tranh được phép hợp pháp gữa các đảng và các ý thức hệ, họ trấn áp mọi sự đối lập, mọi phong trào suy nghĩ khác hay thực sự độc lập. Mặt khác, cơ cấu sở hữu đã trải qua những thay đổi căn bản; họ đã từ bỏ vai trò lãnh đạo của khu vực nhà nước.* Họ đã giảm mạnh mẽ vai trò của điều phối quan liêu và điều tiết tập trung, và thay bằng vai trò của thị trường ở mức độ đáng kể. Hệ thống đã rời xa, rất xa khỏi hệ thống xã hội chủ nghĩa cổ điển, và khá gần với hệ thống tư bản chủ nghĩa điển hình. Ý thức hệ chính thống cũng trải qua những thay đổi to lớn. Đảng cộng sản, theo truyền * Ở Việt Nam, khu vực nhà nước vẫn đóng “vai trò chủ đạo” trên văn kiện. 14
  6. thống thì đối kháng với sở hữu tư nhân và thị trường, nay đã trở nên thân thiện với các định chế này. Thế giới quan chống tư bản chủ nghĩa gay gắt trước kia đã chuyển theo hướng các giá trị và các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay các đảng cộng sản của hai nước này thân thiện với chủ nghĩa tư bản – nhưng họ nguỵ trang thái độ này bằng các khẩu hiệu marxist-leninist, bằng các tuyên bố trung thành với tư tưởng Mao và Hồ Chí Minh. Liên quan đến giải nghĩa thứ tư – thiếu hai nét đặc trưng chính của nền dân chủ xã hội thực sự. Trước tiên, họ giữ chế độ chuyên chế và hệ thống độc đảng, và họ bác bỏ một cách điên cuồng bầu cử dựa trên cạnh tranh chính trị. Thứ đến, chế độ thống trị cộng sản theo kiểu cũ đã nỗ lực một cách nghiêm túc để xây dựng nhà nước phúc lợi, chí ít các thành phần nhất định, trong khu vực giáo dục và y tế, cũng như trong hệ thống hưu bổng. Quyền được hưởng đã mở rộng ra cho tất cả công dân hay – về một số dịch vụ – chí ít cho người lao động của các xí nghiệp thuộc sở hữu công. Khi họ làm việc này, tất nhiên trình độ sản xuất và phát triển kinh tế thấp đã hạn chế các khả năng của các chính phủ khi đó. Những nỗ lực đó đã không thể dẫn đến một nhà nước phúc lợi hiện đại có nền móng tốt. Ở những điểm nhất định họ thậm chí còn vượt quá các giới hạn nguồn lực có thể dùng cho mục đích này, và đã tạo ra một nhà nước phúc lợi đẻ non. Tình hình này bây giờ đã chấm dứt! Nhà nước đã bắt đầu rút lui khỏi lĩnh vực dịch vụ phúc lợi vì lợi ích của cân bằng ngân sách thuận lợi hơn và của tính cạnh tranh hữu hiệu của khu vực tư nhân. Mức tái phân phối giảm đi, sự bất bình đẳng tăng lên đầy kịch tính, khoảng cách giàu nghèo doãng ra. Trung Quốc và Việt Nam không tiến gần (ở mức độ tương đối, về mặt phân chia thu nhập và cơ cấu các dịch vụ phúc lợi) đến mô hình dân chủ xã hội Scandinavian, mà đúng hơn tiến theo hướng mô hình của Manchester đầu thế kỷ thứ 19 hay mô hình của các nước Mỹ-Latin vô cùng bất bình đẳng. Bốn câu trả lời không dứt khoát – đây là câu trả lời phủ định được nhấn mạnh cho câu hỏi, liệu hệ thống đang hoạt động ở Trung Quốc và Việt Nam có thể gọi là “chủ nghĩa xã hội” hay không, nếu chúng ta áp dụng bất cứ loại giải nghĩa nào trong số bốn giải nghĩa đã được mô tả trong tiểu luận.9 Đây là sự quan sát sự thật, và không có bất cứ ngụ ý chuẩn tắc nào cả. Trong con mắt của tôi danh hiệu chủ nghĩa xã hội không phải là huân chương khen thưởng. Tôi không phải 9 Tôi còn quay lại vấn đề này trong phụ lục của tiểu luận thứ 6 [của cuốn Szocializmus, kapitalizmus, democrácia és rendszerváltás, tr. 133-135]. 15
  7. là người thuyết giảng và người ủng hộ của chủ nghĩa xã hội leninist. Tôi không bàn vấn đề, liệu Trung Quốc và Việt Nam “có xứng đáng hay không” để được gọi là các nước xã hội chủ nghĩa, hay đã rời hay chưa khỏi con đường leninist. Tương tự, tôi không là nhà tuyên truyền của dân chủ xã hội, và vì thế liên quan đến luận giải này tôi không gắn sự đánh giá cho nhận xét rằng các nước này không theo hình mẫu dân chủ xã hội xét trên khía cạnh dân chủ đại nghị và nhà nước phúc lợi. Chủ nghĩa xã hội – đây không phải là nhãn hiệu đã được đăng ký. Chẳng ai được trao quyền để đưa ra định nghĩa riêng duy nhất và có hiệu lực bắt buộc, và đưa ra yêu sách, theo đó chỉ có định nghĩa của anh ta là hợp pháp. Nếu lãnh đạo Trung Quốc hay Việt Nam khăng khăng gọi chế độ riêng của họ là “xã hội chủ nghĩa”, chẳng ai có thể từ chối quyền làm như vậy của họ. Tất nhiên đối với các nhà nghiên cứu khoa học, những người chuyên nghiên cứu về các ý thức hệ, các biểu tượng, các nghi thức (lễ), các thuật hùng biện chính trị, thì câu hỏi hấp dẫn vẫn còn: động cơ của sự khăng khăng này là cái gì? Các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam đã chấp nhận rủi ro, để rời khỏi con đường leninist, để cũng không bước sang con đường dân chủ xã hội, mà đã quyết định bước sang con đường mới bằng các việc làm, bằng hành động. Vì sao họ lại bảo thủ và ngoan cố đến vậy trong việc tiếp tục rêu rao các từ ngữ cũ? Vì sao họ lại tiếp tục treo các nhãn mác cũ? Các nhà nghiên cứu lịch sử hệ tư tưởng có lẽ có khả năng trả lời câu hỏi đó. Trong mọi hoàn cảnh, sự quan sát này chứng minh rằng lời lẽ có ý nghĩa của nó. Trong lĩnh vực chính trị (và có lẽ cả trong cuộc sống riêng tư nữa) nhiều khi thực hiện sự rẽ ngoặt bằng hành động thực tế là dễ hơn việc thú nhận rằng mình đã trở thành kẻ phản bội các tín điều và các giá trị được thừa nhận trước kia. Từ Saulus trở thành Paulus – công khai thú nhận, rằng mình đã cải đạo, đã thay đổi niềm tin và chấp nhận tất cả các hệ quả của sự thay đổi đó – đây là sự kiện hiếm, rất hiếm trong lịch sử chính trị. Các trí thức, những người sống bằng từ ngữ viết hay lời nói, thử làm rõ các khái niệm một cách sốt sắng. Thế nhưng, cuộc sống vẫn tiếp tục diễn ra giữa sự loạn khái niệm. Trong tiểu luận này tôi thử làm rõ khái niệm. Nỗ lực này có dẫn đến kết quả bất luận như thế nào đi nữa – chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu các cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam, ngay cả nếu chúng ta không biết quyết định phải gọi hệ thống hiện tồn trong hai nước này như thế nào. Quan trọng nhất là chúng ta biết được bản chất thực của những thay đổi diễn ra ở đó. 16
  8. Tài liệu tham khảo Bardhan, P. K., Roemer, J. E. (ed.) (1993): Market Socialism: The Current Debate, Oxford University Press, Oxford. Giddens, A. (2000): The Third Way and its Critics, Polity Press, Cambridge, England. Hayek, F. A. (ed.) (1935): Collectivist Economic Planning, North-Holland, Amsterdam (trong đó có bài The Nature and History of Problem của ông). Hodge, C. C., (1993): “The Politics of Programmatic Renewal: Postwar Experiences in Britain and Germany” in Gillespie, R., Paterson, W. E. (ed.) Rethinking Social Democracy in Western Europe. Frank Cass, Portland. Kornai, J., (2002): Hệ thống xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hóa Thông Tin, 2002. Kornai, J., (1993): Market Socialism Revisited, in Peterson, G. B. (ed.), The Tanner Lectures on Human Values, Vol. 14. University of Utah Press, Salt Lake City, pp. 3-41. Lange, Oscar (1936-1937): On Economic Theory of Socialism, 1-2. Review of Economic Studies, 4. October, pp. 53-71, February, pp. 123-142. Lenin, V. I., (1917): Nhà nước và Cách mạng.* Lenin, V. I., (1918): Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky Lenin, V. I., (1920): Bệnh tả khuynh, căn bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản Lerner, A. P., (1946): The Economics of Control, MacMillan, New York Mankiw, N. G., (2001): Principles of Economics, Second Edition, Hartford College Publishers, New York. Marx, K., Engels, F. (1848): Tuyên ngôn Cộng sản Przeworski, A. (1985): Capitalism and Social Democracy, Cambridge University Press – Edition de la Maison de l’Homme, Cambridge, England – Paris. Samuelson, P. A., Nordhaus (1997): Kinh tế học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. * Bạn đọc có thể tìm các tác phẩm kinh điển của Lenin, Marx và Engels trên Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tại người dịch không có thời gian lần chính xác các trích dẫn tiếng Việt nhưng độc giả có thể dễ dàng tìm ra các tác phẩm đó nếu muốn. 17