Từ cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam
Bài viết này là một nỗ lực thử tổng kết những nội dung cơ bản của một nhánh
đang phát triển mạnh gần đây trong kinh tế học ứng dụng là “kinh tế học vĩ mô
về kiều hối.” Việc hệ thống hoá nội dung trong nhánh lý thuyết này cho thấy
dòng kiều hối tạo ra những hiệu ứng vừa tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế.
Bài viết cũng tổng kết các nghiên cứu định lượng mới nhất về vấn đề này ở Việt
Nam, và chỉ ra rằng ảnh hưởng của dòng kiều hối lên nền kinh tế nước ta phản
ánh cả hai chiều hướng nêu trên. Trên cở sở tổng hợp những phát hiện từ các mô
hình lý thuyết và thực nghiệm, tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm phát
huy những tác động tích cực của dòng kiều hối trong dài hạn.
đang phát triển mạnh gần đây trong kinh tế học ứng dụng là “kinh tế học vĩ mô
về kiều hối.” Việc hệ thống hoá nội dung trong nhánh lý thuyết này cho thấy
dòng kiều hối tạo ra những hiệu ứng vừa tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế.
Bài viết cũng tổng kết các nghiên cứu định lượng mới nhất về vấn đề này ở Việt
Nam, và chỉ ra rằng ảnh hưởng của dòng kiều hối lên nền kinh tế nước ta phản
ánh cả hai chiều hướng nêu trên. Trên cở sở tổng hợp những phát hiện từ các mô
hình lý thuyết và thực nghiệm, tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm phát
huy những tác động tích cực của dòng kiều hối trong dài hạn.
Bạn đang xem tài liệu "Từ cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- tu_cuoc_tranh_luan_trong_kinh_te_hoc_vi_mo_ve_kieu_hoi_den_n.pdf
Nội dung text: Từ cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam
- cơ cấu phân bổ kiều hối những năm sau đó. Lượng kiều hối chuyển về hai cực nói trên giảm một cách tương đối, và tăng lên ở tất cả các vùng khác, đáng kể nhất là vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Sự dịch chuyển này phản ánh một thực tế là trong thập niên vừa rồi, nguồn cung công nhân xuất khẩu lao động đã dịch chuyển khỏi hai thành phố lớn và chuyển về các vùng lân cận. Giữa khu vực nông thôn và thành thị cũng có một sự dịch chuyển đáng kể (Hình 1). Trong khi dân số ở khu vực nông thôn dần dần giảm đi, thì tỷ trọng kiều hối khu vực này nhận được lại tăng lên đáng kể. Có khả năng là vào giai đoạn đầu, cơ hội xuất khẩu lao động chủ yếu rơi vào khu vực thành thị, nơi người dân có lợi thế về thông tin đi làm việc ở nước ngoài. Nhưng theo thời gian, một mặt cung lao động từ thành thị giảm, mặt khác thông tin được lan toả sang khu vực nông thôn ngày càng nhanh, kết quả là lượng công nhân xuất khẩu lao động từ khu vực nông thôn đã tăng lên nhanh chóng. 100% 90% 80% 70% 60% Thành thị 50% Nông 40% thôn 30% 20% 10% 0% 1992/93 1997/98 2003 2004 Hình 1. Phân phối kiều hối theo vùng nông thôn-thành thị Nguồn: Pfau & Long (2006) Một vấn đề rất quan trọng nhưng đồng thời lại rất chưa rõ ràng, là kiều hối được sử dụng như thế nào. Câu trả lời chính xác cho vấn đề này có thể giúp ích cho việc làm sáng tỏ cuộc tranh luận về hiệu ứng thực sự của kiều hối đối với đời sống kinh tế. Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cho thấy 73% lượng kiều hối được phân bổ cho tiêu dùng trực tiếp, trong khi 14% được dùng cho “xây (và sửa) nhà,” và chỉ có 6% là được dùng cho “đầu tư” nói chung, tức là kể cả đầu tư cho giáo dục và đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Nhằm mục đích hiểu sâu hơn tác động của kiều hối đến tiêu dùng của hộ gia đình, Nguyễn T.T. Linh (2006) thực hiện một nghiên cứu định lượng và phát hiện một số kết quả đáng lưu ý. Thông qua việc khảo sát kết quả điều tra VLSS 2002, tác giả đã nghiên cứu tác động của việc nhận tiền (cả từ trong nước lẫn nước ngoài) đến cách thức chi tiêu của hộ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy những hộ gia đình nhận kiều hối có khuynh 10
- hướng sử dụng một phần lớn hơn trong thu nhập tăng thêm cho việc xây và sửa nhà. Sự chi tiêu như thế có thể thấy rõ nhất ở những nhóm hộ nghèo nhất và giàu nhất. Từ đó, tác giả lập luận rằng trong khi nhóm hộ nghèo dùng kiều hối để đáp ứng nhu cầu cơ bản cho cuộc sống, thì nhóm hộ giàu hơn có thể sử dụng kiều hối dưới dạng đầu tư vào bất động sản. Theo quan điểm này, khó có thể phân tách bạch hai hành vi “xây và sửa nhà” và “đầu tư” như trong cách phân loại của Pfau và Long (2006). Trong nghiên cứu định lượng gần đây, Nguyễn Đ. Thành (2007) sử dụng kỹ thuật mô hình hoá cân bằng tổng thể (CGE) để phân tích tác động của kiều hối lên nền kinh tế Việt Nam. Kết quả từ nghiên cứu này củng cố quan điểm cho rằng ảnh hưởng của kiều hối lên nền kinh tế của các nước đang phát triển là phức tạp và pha trộn nhiều khuynh hướng khác nhau. Trong khi hộ gia đình có khuynh hướng thu được lợi ích từ việc tăng thêm thu nhập, thì ảnh hưởng lên khu vực sản xuất lại không rõ ràng như vậy. Vì dòng kiều hồi chảy về đủ lớn để gây áp lực lên đồng nội tệ và thúc đẩy tiêu dùng của một số mặt hàng, xuất hiện sự dịch chuyển trong cấu trúc của tổng cầu và các nhận tố sản xuất được phân bổ lại. Trong bối cảnh Việt Nam, khi dòng kiều hối tăng nhanh đi kèm với việc hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, kết quả ước lượng từ nghiên cứu này cho thấy giá của tất cả các nhân tố đều tăng, trong khi khu vực sản xuất công nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất và có khuynh hướng bị thu hẹp (các điều kiện khác không đổi). Điều này hàm ý rằng ảnh hưởng dài hạn của kiều hối lên mặt cung của nền kinh tế có thể theo chiều hướng tiêu cực, và có thể lấn át những ảnh hưởng tích cực mang tính ngắn hạn từ phía cầu nếu kiều hối không được sử dụng cho các mục đích đầu tư. 5. Những gợi mở về vấn đề kiều hối ở Việt Nam Từ thực tiễn của Việt Nam, nhìn chung, tác dụng tích cực và dễ thấy của dòng kiều hối là giúp tăng thu nhập khả dụng của các hộ gia đình, do đó làm tăng chi tiêu trong nước. Tuy nhiên, việc tăng chi tiêu đồng thời có khuynh hướng dịch chuyển theo hướng làm tăng cầu hàng tiêu dùng nhập khẩu. Bên cạnh đó, trên thị trường ngoại tệ, nếu không có sự can thiệp ổn định tỷ giá, lượng cung ngoại tế lớn dẫn đến khuynh hướng tăng giá đồng nội tệ. Điều này dẫn tới làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam với hàng nước ngoài cả ở trong nước lẫn nước ngoài. Do đó, tổng cầu về hàng Việt Nam có thể suy giảm. Để khắc phục hiệu ứng tiêu cực và khó nhận biết này, cần thực thi các chính sách nhằm giúp nâng cao hiệu quả sử dụng của kiều hối, như định hướng hoặc tạo động lực để kiều hối được sử dụng cho các mục đích mang tính đầu tư cao hơn (cả đầu tư vào sản xuất lẫn đầu tư vào con người như giáo dục). Bên cạnh đó, lượng kiều hối gia tăng một phần phản ánh thực tế là lượng lao động của Việt Nam ở nước ngoài ngày càng nhiều (kết quả của chính sách xuất khẩu lao động). Để lực lượng lao động này khi hết hạn hợp đồng trở về nước có thể sử dụng phần tiền họ đã tiết kiệm 11
- và gửi về một cách hiệu quả, cần có các chính sách định hướng ngành nghề của người lao động xuất khẩu ở nước ngoài. Nếu các ngành là những ngành có nhiều kỹ năng, khi trở về người lao động có khuynh hướng sử dụng tiền tiết kiệm theo hướng đầu tư nhiều hơn là tiêu dùng thuần tuý. Điều này cũng giúp tạo ra các hiệu ứng phát triển kinh tế tích cực trong dài hạn của kiều hối. Tài liệu tham khảo Adams, Richard H. & John Page (2003), “International Migration, Remittances, & Poverty in Developing Countries,” Policy Research Working Paper No. 3179, World Bank. Addy, David N., Boris Wijkström, & Colleen Thouez (2003), “Migrant Remittances - Country of Origin Experiences - Strategies, Policies, Challenges & Concerns,” paper presented at the International Conference on Migrant Remittances: Developmental Impact & Future Prospects, International Migration Policy Programme (IMP), London, October, 9-10 2003. Bouhga-Hagbe, Jacques (2004), “A Theory of Workers’ Remittances With an Application to Morocco?” Working Paper No. WP/04/194, International Monetary Fund. Bracking, Sarah (2003), “Sending Money Home: Are Remittances Always Beneficial to Those Who Stay Behind?” Journal of International Development, 15: 633-644. Buch, Claudia M. & Anja Kuckulenz (2004), “Worker Remittances & Capital Flows to Developing Countries,” Discussion Paper No. 04-31, Centre for European Economic Research (ZEW). Bugamelli, Matteo & Francesco Paternò (2005), “Do Workers’ Remittances Reduce the Probability of Current Account Reversals?” Policy Research Working Paper No. 3766, World Bank. Chami, Ralph; Connel Fullenkamp, & Samir Jahjah (2005), “Are Immigrant Remittance Flows a Source of Capital for Development?” IMF Staff Papers, Vol. 52: 55-81. Chami, Ralph , Thomas F. Cosimano, & Michael T. Gapen (2006), “Beware of Emigrants Bearing Gifts: Optimal Fiscal & Monetary Policy in the Presence of Remittances,” Working Paper, WP/06/61, International Monetary Fund. Đặng Nguyên Anh (2005), “Enhancing the Development Impact of Migrant Remittances & Diaspora: The Case of Viet Nam,” Asia-Pacific Population Journal, 20: 111-122. 12
- Drinkwater, Stephen; Paul Levince & Emanuaela Lotti (2003), “The Labor Market Effects of Remittances,” Working Paper, University of Surrey. Giuliano, Paola & Marta Ruiz-Arranz (2005), “Remittances, Financial Development, & Growth,” Working Paper WP/05/234, International Monetary Fund. Glytsos, Nicholas P. (2002a), “The Role of Migrant Remittances in Development: Evidence from Mediterranean Countries,” International Migration, 40: 5-26. Glytsos, Nicholas P. (2002b), “Dynamic Effects of Migrant Remittances on Growth: An Econometric Model with an Application to Mediterranean Countries,” Working Paper No. 74, Centre of Planning & Economic Research, Athens, Greece. Hernández-Coss, Raúl (2005), “The Canada-Vietnam Remittance Corridor: Lessons on Shifting from Informal to Formal Transfer Systems,” World Bank. IMF (2003), “Statistical Appendix: Vietnam,” Country Report 03/382, International Monetary Fund, Washington D.C. IMF (2007), “Statistical Appendix: Vietnam,” Country Report 07/386, International Monetary Fund, Washington D.C. Kapur, Devesh (2003), “Remittances: The New Development Mantra?” paper prepared for the G-24 Technical Group Meeting. León-Ledesma, Miguel & Matloob Piracha (2004), “International Migration & the Role of Remittances in Eastern Europe,” International Migration, Vol. 42 (4): 65-83. Lucas, Robert E.B. (2004), “International Migration to the High Income Countries: Some Consequences for Economic Development in the Sending Countries,” Mimeo. Nguyễn Đức Thành (2007), “Economywide Effects of International Remittances: A Computable General Equilibrium Assessment for Vietnam,” Chapter 4 in “The Economics of International Migration: A Perspective from the Source Countries,” PhD disseratation, GRIPS, Tokyo. Nguyễn Thị Thùy Linh (2006), “Remittances, Household Expenditure & Investment in Vietnam,” MA Thesis, International University of Japan. 13
- Pfau, D. Wade & Giang Thanh Long (2006), “The Growing Role of International Remittances in the Vietnamese Economy: Evidence from the Vietnam (Household) Living Standard Surveys,” paper presented at the Conference on Global Movements in the Asia Pacific, Ritsumeikan Asia-Pacific University (APU), Oita, Japan, Nov. 17-18, 2006. Puri, Shivani & Tineke Ritzema (1999), “Migrant Worker Remittances, Micro-finance & the Informal Economy: Prospects & Issues,” ILO Working Paper No. 21. Rapoport, Hillel and Frédéric Docquier (2006), “The Economics of Migrants’ Remittances,” Chapter 17 in Serge-Christophe Kolm and Jean M. Ythier (2006), Handbook on the Economics of Giving, Reciprocity and Altruism, Vol. 2: 1135-98, Elsevier B.V. Ratha, Dilip (2003), “Workers’ Remittances: An Important & Stable Source of External Development Finance,” Chapter 7 in Global Development Finance 2003, World Bank. Sakr, Khaled (2006), “The Size, Benefits, and Determinants of Migrants’ Remittances in Vietnam” in IMF Country Report No. 06/20: Vietnam Selected Issues, January 2006, p. 34-44. Sayan, Serdar (2006), “Business Cycles & Workers’ Remittances: How Do Migrant Workers Respond to Cyclical Movements of GDP at Home?,” Working Paper No. WP/06/52, International Monetary Fund. Taylor, J. Edward (1999), “The New Economics of Labor Migration & the Role of Remittances in the Migration Process,” International Migration, Vol. 37 (1): 63-88. World Bank (2003), Global Development Finance: Striving for Stability in Development Finance, World Bank, Washington D.C. World Bank (2004), Global Development Finance: Harnessing Cyclical Gains for Development, World Bank, Washington D.C. World Bank (2006), Global Development Finance: Economic Implications of Remittances and Migration, World Bank, Washington D.C. 14
- LIÊN HỆ: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội Địa chỉ: Phòng 704, Nhà E4, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy Hà nội, Việt nam Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714 Fax: (84) 4 3704 9921 Email: Info@cepr.org.vn Website: www.cepr.org.vn © 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 15