Tài liệu Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội

Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ mang tính
chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì chính sách
BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp. BHXH đã được từ
điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi
họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo
đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm
an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
• Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động,
giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã
nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia
đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi
quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện
kinh tế của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau
nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động.
• Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao
động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng
BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan
tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt
buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
• Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn
bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và
đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một
cách hiệu quả nhất. 
pdf 22 trang hoanghoa 09/11/2022 2360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_li_luan_chung_ve_bao_hiem_xa_hoi_va_quan_li_tai_chi.pdf

Nội dung text: Tài liệu Lí luận chung về bảo hiểm xã hội và quản lí tài chính bảo hiểm xã hội

  1. hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định khác nhau về các quỹ thành phần. Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ thống BHXH đó. 9/20
  2. Quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH. Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lí ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động yên tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là những biến động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi trường kinh tế , những biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện mục tiêu của Nhà nước đặt ra. Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ yếu sau: • Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động một cách thường xuyên nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất. • Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng có 10/20
  3. thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ quan BHXH phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau: +An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực để giảm thiểu rủi ro. + Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản chi mà còn góp phần cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. + Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn khoản. Các hình thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước. + Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội, do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân, phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ thống An sinh xã hội của mỗi nước. Nội dung quản lí tài chính BHXH. Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản sau: • Quản lí thu BHXH. • Quản lí chi BHXH. • Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. • Quản lí cân đối quỹ BHXH. 11/20
  4. Quản lí thu BHXH. Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm được nội dung thu gồm hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng chính sau đây: Quản lí đối tượng tham gia BHXH:Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau: + Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH. + Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định. + Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp, ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông tin khác. Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp:Theo những quy định hiện hành như ngày nay thì phí thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của doanh nghiệp và tiền lương tháng của người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của doanh nghiệp BHXH có thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện thu và chi trả trực tiếp cho một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH nói chung. Quản lí tiền thu BHXH:Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua tài khoản của BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. Việc nắm bắt tình hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho công tác chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ được quản lí chung một cách thống nhất, dân chủ, công khai trong toàn hệ thống. 12/20
  5. Quản lí chi BHXH. Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi khác. Trong đó có thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự bảo đảm cuộc sống của chính sách BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính sau: Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ:Mục tiêu của hoạt động quản lí chi không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng vừa tránh lãng phí lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để đảm bảo chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp lí, tổ chức thực hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí hoạt động thu trước tiên chúng ta phải quản lí những đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản thân người lao động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp là những người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp, loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật, và chính biến cố mà người lao động gặp phải. BHXH Việt Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó để xử lí các trường hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm tránh tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được phân loại và phân cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện. Quản lí chi hoạt động bộ máy:Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn thứ hai cần được quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy tức là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị và những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức BHXH. Mức chi này có thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN. Khoản chi này cần được quản lí tránh những lãng phí không cần thiết. Một số nước khoản chi này được NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo. Song nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp tránh những lãng phí không cần thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt động quản lí của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên của ngành BHXH phải cân bằng với các ngành khác. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát triển quỹ lại trở thành nhu cầu 13/20
  6. bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để hoạt động đầu tư thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn, tránh rủi ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội. Quản lí hoạt động cân đối quỹ. BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm thương mại, BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn nhất là ổn định cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là trạng thái mong muốn của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân đối thu chi trên thực tế thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì quỹ phải tìm cho mình những nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ. Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã được trình bày ở trên. Quản lí cân đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm phát hiện ra những thay đổi dẫn đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục kịp thời. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH. Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH nói riêng thì việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động của đối tượng quản lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể mang đến những thách thức cũng như những cơ hội cho chính bản thân các hoạt động tài chính của BHXH. Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ những yếu tố này để đưa ra những quyết định hợp lí và có lợi nhất cho đối tượng quản lí. Các tác động của môi trường thường được chia làm hai loại là tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác động từ môi trường trong hệ thống. Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường kinh tế- chính trị- xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) đã quy định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không chỉ là thể hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất trong xã hội. Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như GDP, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức sống tối thiểu, các dịch vụ công cộng . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân đối quỹ BHXH sao cho phù hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống, truyền thống, trình độ nhận thức, nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá nhân trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được 14/20
  7. mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những yếu tố kể trên tác động tới nội dung của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt Nam. Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác của các đối tượng tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động. Yếu tố trình độ của các cán bộ trong ngành BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết bị phục vụ công tác, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí tài chính BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại thì công tác quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả. 15/20
  8. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính bảo hiểm xã hội Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH. Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH, trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung hiện nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử phát triển của ngành BHXH trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Quản lí tài chính BHXH ciủa Cộng hoà Liên bang Đức. So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát triển được coi như sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ những năm 1850. Cho đến nay, chính sách BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau: + Bảo hiểm thất nghiệp. + Bảo hiểm y tế. + Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật. + Bảo hiểm ốm đau. + Bảo hiểm tai nạn lao động. + Bảo hiểm hưu trí. Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ cột chính là: • Hệ thống BHXH bắt buộc. • Hệ thống BHXH tư nhân. • Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp. Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự quản, bảo đảm tài chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH tư nhân và hệ thống BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động của Liên bang. Tự chịu là hình thức quản 16/20
  9. lí tương đối độc lập với sự chỉ đạo của cơ quan quản lí Nhà nước cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ chế quản lí chung của Quỹ hưu trí sau. Cơ quan quản lí cao nhất là một Hội đồng, hội động này bổ nhiệm Ban điều hành, từ Ban điều hành sẽ điều hành mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong năm của Quỹ hưu trí viên chức Liên bang diễn ra như sau: Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, tổ chức BHXH, Tổng cục Thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới theo phương pháp ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi, trên cơ sở này xác định tỉ lệ thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một văn bản có hiệu lực pháp luật. Quỹ thu thường là đủ dùng chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ, chi hoạt động của bộ máy quản lí và còn một khoản để dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn định của nền kinh tế mà khoản dự trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối tượng do quỹ đảm bảo trong một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoản 0,8 tháng. Cách này có những ưu điểm như: hạn chế được những tác động của môi trường kinh tế, dễ dàng cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh nặng cho NSNN, . Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng một lúc nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm thu, chi cho một loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những công chức Nhà nước ( những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà nước) không phải đóng BHXH, nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi lao động. Khoản chi này được lấy từ nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức cùng tham gia thực hiện các chế độ BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự cạnh tranh giúp cho hoạt động ngày càng hiệu quả. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc. Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng một hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội, trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò quan trọng nhất. Đến năm 1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật Lao động, trong đó chương IX có những quy định cải cách hệ thống BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp dụng ở các khu vực thành thị và trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở Trung Quốc đã cụ thể hoá các chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp đã được xây dựng thành Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm thời song có hiệu lực khá cao. Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai khoản: Một khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao động đóng. Riêng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao động đóng. NSNN sẽ hỗ trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất khả kháng, còn các trường hợp khác tự người lao động và người sử dụng lao động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung được chia làm hai phần: Phần thứ nhất được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn bộ số tiền do người lao động đóng và một phần do chủ sử dụng lao động đóng; Phần thứ hai được đưa vào quỹ chi chung 17/20
  10. trong trường hợp cần thiết là phần đóng góp còn lại của chủ sử dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá nhiều nước quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính mở dễ thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động. Đặc biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm bắt được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều chỉnh tránh tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân định được rõ trách nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa các quỹ, sử dụng sai mục đích hay thất thoát. 18/20