Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 7: Phân tích lợi ích, chi phí "Lợi ích"

Lợi ích của một vật nào đó bằng đúng với những gì mà người ta sẵn lòng trả để có nó, với
những giả định cho trước về phân phối thu nhập và thông tin sẵn có. Đường thiệt hại biên
(MD) trong mô hình MAC-MD thể hiện giá sẵn lòng trả của xã hội để giảm lượng phát
thải từ một chất ô nhiễm và do đó cải thiện chất lượng môi trường1. Đường MD lúc này
tương tự như đường cầu cho hàng hóa thông thường, nhưng dĩ nhiên sẽ dốc đứng bởi vì
hàng hóa được đo lường là hàng hóa không mong muốn và phúc lợi của chúng ta tăng khi
sử dụng ít hàng hóa này. Tổng lợi ích được đo lường bằng diện tích nằm dưới đường MD,
giới hạn bởi điểm thiệt hại biên bằng 0 và mức ô nhiễm mục tiêu như đã trình bày ở
chương 5. Đây là phần thiệt hại giảm được do giảm ô nhiễm/cải thiện chất lượng môi
trường (EQ). Chương này khảo sát các kỹ thuật nhằm đánh giá giá sẵn lòng trả (WTP) để
giảm ô nhiễm. Một thách thức mà chúng ta phải đối đầu là không có thị trường cho người
mua và bán chất lượng môi trường, do đó chúng ta không thể sử dụng những kỹ thuật trực
tiếp dùng thị trường để đánh giá lợi ích. Chúng ta phải sử dụng những kỹ thuật gián tiếp.
Một nhà kinh tế học môi trường từng nói: “Công việc ước lượng lợi ích thường gồm việc
thăm dò nhằm lắp ráp các giá trị mà cá nhân gán cho dịch vụ môi trường khi họ phản ứng
với các tín hiệu kinh tế khác”2.
Có nhiều mức độ trong việc đánh giá giá trị lợi ích. Đối với một nhà phân tích làm việc
cho một văn phòng môi trường thì đánh giá giá trị lợi ích là công việc thế số vào các công
thức. Diện tích đất ngập mặn nuôi nghêu bị giảm (do các nhà sinh học cung cấp) nhân với
giá nghêu hiện hành trên thị trường (lấy được từ một cuộc khảo sát nhanh tại chợ) sẽ bằng
với giá trị thiệt hại của ô nhiễm nước ở Howe Sound hay vịnh Fundy. Trong trường hợp
này, giá thị trường của một hàng hóa rõ ràng phản ánh giá sẵn lòng trả của người tiêu dùng
cho hàng hóa đó như đã thảo luận ở chương 3. Có thể dùng đường cầu thị trường để xác
định tổng lợi ích (diện tích dưới đường cầu) của việc giảm ô nhiễm. Lợi ích này bằng với
việc giảm tổng thiệt hại (diện tích dưới đường MD). 
pdf 27 trang hoanghoa 08/11/2022 6640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 7: Phân tích lợi ích, chi phí "Lợi ích"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_kinh_te_moi_truong_chuong_7_phan_tich_loi_ich_chi_p.pdf

Nội dung text: Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 7: Phân tích lợi ích, chi phí "Lợi ích"

  1. $ Hình 7-3: Xác định thặng dư tiều dùng cho hàng hóa công 5 4 3 a b 2 1 0 1 2 3 4 5 6 10 Chỉ số chất lượng môi trường Thay đổi thặng dư tiêu dùng do cải thiện chất lượng môi trường từ 4 đến 6 đơn vị là diện tích dưới đường cầu, giới hạn bởi hai mức chất lượng môi trường, là (a + b) bằng $5. Thay đổi thặng dư tiêu dùng do thay đổi chất lượng môi trường, một hàng hóa công, có thể được đo lường giống như cách đo lường thay đổi thặng dư tiêu dùng cho hàng hóa tư nhân. CÁC PHƯƠNG PHÁP SUY RA GIÁ SẴN LÒNG TRẢ CHO NHỮNG CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG Căn bản chúng ta có 4 cách tìm ra giá sẵn lòng trả cho việc cải thiện chất lượng môi trường. Tất cả đều đo lường thay đổi thặng dư tiêu dùng khi chất lượng môi trường thay đổi. Bốn cách này (được trình bày trong bảng 7-1) là: ƒ Chi phí ngăn ngừa ƒ Ước lượng hưởng thụ ƒ Thị trường đại diện ƒ Đánh giá ngẫu nhiên Chúng ta sẽ sử dụng ví dụ minh họa là ô nhiễm tiếng ồn. Ví dụ: Làm thế nào đánh giá giá trị giảm tiếng ồn giao thông Một đặc điểm của xã hội hiện đại là các loại đường cao tốc, và các loại đường này có đặc điểm chính là tiếng ồn giao thông. Do đó dân cư sống gần sẽ chịu thiệt hại từ tiếng ồn giao thông này. Giả sử chúng ta muốn đánh giá giá sẵn lòng trả của cư dân ở đây cho việc giảm tiếng ồn giao thông. Chúng ta làm điều đó thế nào? Chúng ta có thể sử dụng 3 trong 4 cách ở trên11. Cách 1: Chi phí ngăn ngừa Chủ nhà có thể sẽ chi tiêu để giảm tiếng ồn vào nhà họ. Ví dụ, học có thể lắp thêm thiết bị cách ly vào tường, lắp gương cửa sổ dày gấp đôi, trồng cây quanh vườn hoặc lắp thiết bị 11 Sẽ khó trình bày làm cách nào sử dụng phương pháp thị trường đại diện trong ví dụ này. Cuối chương sẽ có phần minh họa phương pháp này. Barry Field & Nancy Olewiler 244
  2. thẩm thấu tiếng ồn bên ngoài. Khi người ta chi tiêu như vậy, một cách nào đấy họ cho thấy giá sẵn lòng trả cho môi trường yên tĩnh. Nói chung, nếu chúng ta có thể tìm ra những trường hợp người tiêu dùng mua hàng hóa thị trường để thay đổi mức tiếp xúc với môi trường xung quanh, chúng ta có thể phân tích việc mua hàng hóa này để biết được giá trị mà họ gán cho những thay đổi môi trường. Cách 2: Ước lượng hưởng thụ Tiếng ồn của con đường có thể ảnh hưởng đến giá nhà trong khu vực xung quanh. Nếu hai nhà có các đặc tính đều giống nhau, chỉ khác nhau tiếng ồn của môi trường xung quanh, chúng ta có thể dự đoán là nhà có tiếng ồn nhiều hơn sẽ kém giá trị hơn nhà có tiếng ồn ít. Nếu thị trường nhà cạnh tranh, giá nhà ồn hơn sẽ thấp hơn giá nhà kia. Do đó, bằng cách nghiên cứu sự khác biệt giá nhà, chúng ta có thể ước lượng được giá trị mọi người gán cho tiếng ồn. Bất cứ trường hợp nào giá hàng hóa hoặc dịch vụ thay đổi theo đặc tính môi trường chúng ta đều có thể phân tích sự thay đổi giá này để biết giá sẵn lòng trả cho các đặc tính đó. Cách 3: Đánh giá ngẫu nhiên Cả hai cách trên đều tìm giá trị đại diện cho WTP bằng cách phân tích dữ liệu thị trường suy ra giá sẵn lòng trả cho những đặc tính môi trường có liên hệ với giá thị trường đó. Cách thứ 3 khá trực tiếp. Chúng ta thực hiện một cuộc khảo sát và hỏi cư dân sẵn lòng trả bao nhiêu để giảm tiếng ồn tác động đến nhà họ. Trong những năm gần đây, các nhà kinh tế học rất quan tâm phương pháp khảo sát trực tiếp này, chủ yếu bởi vì nó khá linh động. Phương pháp này có thể đánh giá giá trị bất cứ tài nguyên môi trường nào nếu tài nguyên môi trường đó có thể mô tả được chính xác. Trong phần còn lại của chương này, chúng ta với ví dụ cụ thể hơn sẽ minh họa làm thế nào sử dụng các phương pháp này để ước lượng lợi ích cải thiện chất lượng môi trường, cũng như nêu ra các vấn đề, khó khăn mà phân tích lợi ích chi phí gặp phải. Chi tiêu ngăn ngừa Ô nhiễm nước và không khí có thể tác động nhiều đến sức khỏe, từ tức ngực nhẹ, đau đầu đến những bệnh cấp tính cần chăm sóc tại bện viện. Con người thường chi tiêu để tránh, ngăn ngừa các tác động này. Chi tiêu loại này là một cách thể hiện giá sẵn lòng trả của họ để tránh các tác động. Xem xét ví dụ sau đây. Ví dụ: Mua máy lọc không khí để giảm tác động của sương mù gây bện hen suyễn Sương mù ở đô thị hình thành từ các chất ô nhiễm không khí (sulphur đioxyt, bụi, oxit nitơ) vào ban ngày khi nhiệt độ cao và bị gió phân tán hoặc khi không khí lạnh bị dồn nén trong một vùng có không khí nóng ở trên. Một số thành phố ở Canada (chẳng hạn Toronto, Vancouver, Montreal) bị nhiễm loại sương mù này vì ở đây có lượng khói thải cao và điều kiện thuận lợi để tạo sương mù. Các chất tạo nên sương (cùng với khí ozon ở tầng thấp tạo ra bởi tương tác giữa các chất ô nhiễm và ánh sáng) đã gây ra bệnh suyễn và các vấn đề hô hấp khác. Giả sử bạn bị bệnh suyễn và muốn giảm tiếp xúc với sương mù. Khoản chi tiêu ngăn ngừa của bạn sẽ là tiền mua thiết bị lọc không khí. Chi phí này bao gồm tiền mua lọc nước ban đầu (chi phí đầu tư) và chi phí vận hành máy lọc vào những ngày có nhiều sương (điện, bộ lọc không khí). Chúng ta giả sử bạn sẽ không mua thiết bị lọc không khí nếu sương mù không phải là vấn đề lớn trong thành phố. Tuy nhiên, cũng có một số người (ví dụ người hút thuốc) mua máy lọc không khí không phải để lọc sương mù. Barry Field & Nancy Olewiler 245
  3. Phân tích kinh tế có thể tính chi phí ngăn ngừa dựa trên dữ liệu thị trường máy lọc không khí. Các bước phân tích có thể như sau: 1. Thu thập dữ liệu thị trường máy lọc không khí ở 2 thành phố - một có rất nhiều sương mù và thành phố kia không có. 2. Ước lượng đường cầu thị trường máy lọc không khí ở 2 thành phố 3. Sử dụng đường cầu để tính lợi ích giảm sương mù bằng cách đo lường chênh lệch giữa giá sẵn lòng trả cho máy lọc không khí trong trường hợp có và không có sương mù. Chúng ta giả sử nhà nghiên cứu đã hoàn thành bước 1 và 2. Hình 7-4 trình bày 2 đường cầu ước lượng từ bước 212. Hai thành phố Hamilton, Ontario nằm trong vòng đai sương mù ở đông Canada có một số ngày trong năm bị sương mù ảnh hưởng. Các thành phố Winnipeg, Manitoba có rất ít ngày bị sương mù ảnh hưởng do vị trí nằm xa nguồn tạo sương, có địa hình và thời tiết thuận lợi (không có núi, gió nhiều và rất lạnh nên không tạo ra sương mù trong hầu hết năm). Đường cầu cho máy lọc không khí ở Winnipeg nằm trong hẳn đường cầu của Hamilton. Bước 3 yêu cầu tính lợi ích do giảm sương mù. Nếu thành phố Hamilton có thể giảm sương mù xuống ngang bằng mức của thành phố Winnipeg, có thể giả định rằng dân cư sẽ giảm chi tiêu mua máy lọc không khí xuống ngang mức chi tiêu của dân Winnipeg (mọi yếu tố khác không đổi). Có thể ước lượng WTP để giảm lượng sương mù xuống ngang mức của Winnipeg bằng chênh lệch giữa hai đường cầu trong hình 7-4. Đây là chênh lệch tổng WTP cho máy lọc không khí. Chúng ta đơn giản đo lường diện tích dưới đường cầu của mỗi thành phố và lấy Himilton trừ Winnipeg. Tổng giá sẵn lòng trả của cư dân Hamilton để loại bỏ sương mù là $150.000, của cư dân Winnioeg là $50.000. Sự chênh lệch là $100.000. Sự chênh lệch này là WTP của cư dân Hamilton để cải thiện chất lượng không khí lên mức của Winnipeg. Bây giờ giả sử giá trung bình của máy lọc không khí ở cả hai thành phố là $75. WTP phải được đo bằng sự thay đổi thặng dư tiêu dùng từ các mức chất lượng không khí khác nhau. Đó chính là sự chênh lệch giữa diện tích trên mức giá thị trường giữa 2 đường cầu, là diện tích phần tô đậm trong hình 7-4, bằng $55,468.75.13 Nhớ rằng chúng ta sử dụng thay đổi thăng dư tiêu dùng vì chúng ta muốn loại bỏ chi tiêu. Nếu mọi người không chi tiêu cho hàng hóa chúng ta đang xét, họ sẽ chi tiêu cho hàng hóa khá, do đó chúng ta chỉ đo lường WTP là nhưng khoản thặng dư. 12 Cuốn sách này không trình bày cách xây dựng đường cầu này. Muốn xây dựng đường cầu, cần các kỹ thuật kinh tế lượng để hối quy. 13 Cách đơn giản nhất để tính thay đổi thặng dư tiêu dùng là tính thặng dư tiêu dùng trên đường giá $75 cho mỗi thành phố. Đối với thành phố Hamilton, thặng dư tiêu dùng là fi($125 x 937.5) = $58.593,75. Đối với Winnipeg, thặng dư tiêu dùng là ½($25 x 250) = $3.125. Chênh lệch $55.468,75. Barry Field & Nancy Olewiler 246
  4. Hình 7-4: Sử dụng Chi tiêu ngăn ngừa để tính WTP cho giảm sương mù $ Giá 200 Cầu ở Hamilton 100 75 Cầu ở Winnipeg 0 250 1,000 1,500 Lượng máy lọc không khí Hình trên biểu diễn 2 đường cầu máy lọc nước đã được ước lượng sẵn. Hamilton là thành phố có nhiều ngày có sương mù; Winnipeg là thành phố ít ngày có sương. Đường cầu của Hamilton nằm trên đường cầu của Winnipeg vì cư dân ở đây phải chi tiêu ngăn ngừa để giảm thiệt hại từ sương mù. Sự chênh lệch giữa 2 đường cầu cho thấy giá sẵn lòng trả của cư dân Hamilton để ngăn chặn sương mù. Giá sẵn lòng trả để ngăn chặn sương mù là diện tích được tô đậm. Nếu sương mù ở Hamilton giảm tới mức của Winnipeg, diện tích tô đậm sẽ là lợi ích giảm thiệt hại do sương mù. Trong phân tích lợi ích chi phí, để sử dụng thay đổi thặng dư tiêu dùng tính WTP cho việc cải thiện chất lượng không khí, cần phải chuyển thành giá trị từng năm. Đó là vì máy lọc không khí là tài sản vốn được dùng trong thời gian dài có khấu hao. Giả sử máy được sử dụng trong 10 năm và khấu hao đều hàng năm. Do đó giá trị/khấu hao của máy là 1/10 giá trị ban đầu, bằng $5.547.14 Giá trị này là lợi ích hàng năm do giảm sương mù của cư dân Hamilton đến mức của cư dân Winnipeg và giá trị này được chiết khấu theo cách thông thường thường thấy trong phân tích lợi ích chi phí. Ví dụ này cho thấy cách thức sử dụng chi tiêu ngăn ngừa để đo lường giá sẵn lòng trả cho cải thiện chất lượng môi trường hoặc thiệt hại xảy ra do ô nhiễm. Đây là một phương pháp đại diện: chúng ta ước lượng người ta đánh giá chất lượng môi trường bao nhiêu bằng cách suy từ hành vi tiêu dùng của họ. Trong thực tế có rất nhiều thách thức. Không thể sử dụng phương pháp này cho tất cả các vấn đề môi trường vì chúng ta có thể không đo lường được chi phí ngăn ngừa trong mối liên hệ với một vấn đề môi trường cụ thể nào đó, hoặc cũng có thể không dùng được vì không có hành vi ngăn ngừa. Như ví dụ đã đề cập, sẽ rất khó phân biệt một khoản chi tiêu có liên hệ với vấn đề môi trường nào đó hay không. Có phải chênh lệch đường cầu giữa các thành phố phản ánh chất lượng không khí hay là các đặc điểm khác? Cuối cùng, chi phí ngăn ngừa không thể tính được hết các tác hại do ô nhiễm môi trường con người phải chịu, nó chỉ tính được một phần tổn thất thông qua các hoạt động ngăn ngừa. Phương pháp Ước lượng Hưởng thụ Phương pháp ước lượng hưởng thụ có thể được dùng trong những trường hợp giá hàng hóa thị trường có liên hệ đến đặc tính của nó. Chúng ta có thể nghiên cứu cấu trúc chênh lệch giá để suy ra giá trị mà con người gán cho những đặc tính nào đó. Những đặc tính mà các nhà kinh tế học môi trường quan tâm tất nhiên là các đặc tính về môi trường như chất lượng không khí, tiếng ồn, hoặc chất thải độc hại. Nhà phân tích sẽ tách phần đóng góp của đặc tính môi trường trong giá hàng hóa. Giá biên này sau đó được sử dụng để đo lường giá 14 Có thể dùng cách chiết khấu khác, ví dụ như chiết khấu giảm dần. Barry Field & Nancy Olewiler 247
  5. sẵn lòng trả cho việc cải thiện chất lượng môi trường. Phương pháp ước lượng hưởng thụ có thể áp dụng đặc biệt cho thị trường nhà đất và cũng được áo dụng cho chênh lệch lương giữa các ngành công nghiệp có và không có tác hại môi trường. Các bước thực hiện phương pháp ước lượng hưởng thụ bao gồm: 1. Xác định và đo lường các đặc tính môi trường 2. Xây dựng hàm giá hưởng thụ 3. Thu thập số liệu chuỗi thời gian hoặc số liệu dạng bảng 4. Sử dụng phân tích hồi quy bội để đánh giá giá trị biến số môi trường 5. Xây dựng đường cầu cho chất lượng môi trường 6. Tính thay đổi thặng dư tiêu dùng từ thay đổi các mức chất lượng môi trường Xem xét ví dụ về thị trường nhà sau đây. Ví dụ: Sử dụng phương pháp ước lượng hưởng thụ cho thị trường nhà để suy ra WTP cho cải thiện chất lượng môi trường15 Giả sử bạn có hai ngôi nhà giống nhau hoàn toàn từ các đặc điểm vật lý (số phòng, diện tích, năm xâu dựng) đến đặc điểm khu vực xung quanh (khoảng cách đến trung tâm, đến chợ). Nhưng giả sử một nhà nằm trong khu vực bị ô nhiễm không khí nặng, còn nhà kia nằm trong khu vực không khí khá trong lành. Chúng ta có thể dự đoán giá thị trường của 2 nhà này khác nhau do khác nhau về độ ô nhiễm không khí. Cũng có thể tổng quát hóa kết luận này cho thị trường bất động sản vốn có rất nhiều đặc tính khác nhau. Chất lượng không khí xung quanh là một đặc tính rất quan trọng của ngôi nhà, do đó vì nhà được mua và bán trên thị trường, chất lượng không khí khác nhau sẽ được tiền tệ hóa vào trong giá nhà.16 Dĩ nhiên nhà khác nhau rất nhiều chứ không riêng gì đặc tính chất lượng không khí. Do đó chúng ta phải thu thập rất nhiều dữ liệu về thị trường nhà để dùng cho phương pháp ước lượng hưởng thụ. Các nhà nghiên cứu dùng phương pháp thống kê để xây dựng các hàm số giá hưởng thụ. Căn bản, các nhà nghiên cứu sẽ thu thập số liệu mẫu của các căn nhà được bán ra trên thị trường trong một khoảng thời gian nhất định. Mối quan hệ giữa giá nhà và các đặc tính có thể ảnh hưởng đến giá sẵn lòng trả của người mua nhà được ước lượng dùng các kỹ thuật kinh tế lượng. Các đặc tính này có thể bao gồm diện tích nhà, số phòng ngủ, số phòng vệ sinh, năm xây dựng, vị trí, đặc điểm khu vực xung quanh như có gần trường học, công viên, và một biến số môi trường đo được, chẳng hạn chất lượng không khí. Nhà nghiên cứu sẽ vẽ đồ thị hàm số giá hưởng thụ theo biến số chất lượng môi trường (đo bởi chỉ số chất lượng không khí – AQI), giữ các biến số khác không đổi. Hình (a) trong hình 7-5 minh họa 15 Có thể dùng phương pháp ước lượng hưởng thụ cho các nghiên cứu về lương trong các ngành công nghiệp. Công nhân có thể tiếp xúc với lượng ô nhiễm tích tụ cao. Rủi ro rất cao ở những ngành công nghiệp mà công nhân phải làm việc hoặc tiếp xúc với các chất có nguy cơ gây hại cao, có thể qua công việc hàng ngày hoặc tai nạn. Ví dụ có thể kể ra bao gồm bệnh phổi do làm việc trong các hầm mỏ và các nhà máy giấy, bệnh trong nông nghiệp do tiếp xúc với thuốc trừ sâu và thuốc diệt cả. Trong thị truờng hoàn hảo, lương sẽ phản ánh mức độ tiếp xúc của công nhân với chất ô nhiễm. Lương sẽ cao hơn ở những ngành công nghiệp có rủi ro bệnh tật hoặc tử vong từ ô nhiễm cao hơn. 16 Tiền tệ hóa nghĩa là giá nhà điểu chỉnh để phản ánh giá trị hiện tại ròng của thiệt hại của chủ nhà do tiếp xúc với không khí ô nhiễm nếu anh ta mua nhà đó. Barry Field & Nancy Olewiler 248
  6. mối quan hệ này. Hàm giá hưởng thụ là P(AQI;z), với z là các đặc tính khác được giữ cố định. Hàm số không phải tuyến tính này cho thấy đối với hầu hết mọi người, giá sẵn lòng trả của họ cho một đặc tính sẽ thay đổi khi số lượng đặc tính đó tăng lên. Tại mức chất lượng không hí thấp, giá sẵn lòng trả cho một lượng tăng nhỏ chất lượng không khí sẽ cao. Nhưng tại mức chất lượng không khí cao, giá sẵn lòng trả cho việc tăng thêm một đơn vị chất lượng không khí sẽ không còn cao. Nếu một người tính được độ dốc của hàm giá hưởng thụ này với các mức chất lượng không khí khác nhau, anh ta sẽ có được hàm cầu hưởng thụ cho chất lượng không khí. Hàm cầu này có thể dùng để ước lượng giá sẵn lòng trả cho mỗi mức chất lượng không khí tăng trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Hình (b) của hình 7-5 minh họa hàm cầu hưởng thụ D(AQI;z). AQI vẫn ở trục hoành, nhưng trục tung bây giờ đo lường giá sẵn lòng trả cho chất lượng không khí (AQ). Hàm cầu hưởng thụ là hàm độ dốc của hàm giá hưởng thụ và cho biết WTP biên cho mỗi đơn vị chất lượng không khí.17 Bởi vì WTP giảm, hàm cầu là hàm dốc xuống. Khi chúng ta có hàm cầu, chúng ta có thể tính được lợi ích của cải thiện chất lượng không khí. Với chất lượng không khí thay đổi từ AQ0 đến AQ1, diện tích nằm dưới đường cầu hưởng thụ, giới hạn bởi hai mức chất lượng không khí (diện tích tô đậm trong Hình 7-5) là tổng lợi ích của việc cải thiện chất lượng không khí, tính được từ kỹ thuật đánh giá thay đổi thặng dư tiêu dùng cho hành hóa công ở trên. Sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng được diễn tả trong giá nhà. Người mua nhà mua một tài sản tạo ra lợi ích trong một khoảng thời gian nào đó, như trường hợp máy lọc không khí. Nhà nghiên cứu phải chuyển đổi giá nhà thành giá trị hàng năm để có thể tính lợi ích hàng năm do tăng chất lượng môi trường. Một cách tính đơn giản là giả sử ngôi nhà sẽ được dùng mãi mãi (nghĩa là không tính đến khấu hao và chi phí bảo dưỡng). Ví dụ, ngôi nhà bán giá $200.000. Nghiên cứu hưởng thụ tìm ra rằng cứ 1 phần trăm ô nhiễm không khí giảm thì có 2.5 phần trăm giá nhà tăng. Do đó một căn nhà trong khu vực giảm được 1 phần trăm ô nhiễm so với khu vực khác sẽ bán được cao giá hơn $5.000. Đây là cách tính WTP. Giá trị $5.000 được chuyển thành giá trị hàng năm bằng cách sử dụng chiết khấu. Giả sử nhà được sử dụng mãi mãi, nhà nghiên cứu có thể sử dụng công thức tính niên kim PV cho dòng lợi ích kéo dài mãi mãi PV=m/r. $5.00 là giá trị hiện tại PV, và nếu ta biết r, có thể tính ra lợi ích hàng năm m với m=$5.000 × r. Nếu r=5%, thì m=$250. Do đó 1% giảm ô nhiễm không khí sẽ đem lại lợi ích hàng năm là $250. 17 Hàm cầu hưởng thụ cho chất lượng không khí là đạo hàm của hàm giá hưởng thụ theo chỉ số chất lượng không khí. Barry Field & Nancy Olewiler 249
  7. Hình 7-5: Xây dựng đường cầu hưởng thụ cho chất lượng không khí $ (a) Giá P(AQI;z) nhà $ AQI WTP cho (b) chất lượng không khí D(AQI;z) AQ0 AQ1 AQI Hình (a) biểu diễn hàm giá hưởng thụ, là hàm số cho biết mối quan hệ giữa giá nhà và một trong các đặc tính; ở đây là chỉ số chất lượng không khí (AQI), các đặc tính khác không đổi (z). Dạng hàm số của hàm giá hưởng thụ cho thấy giá sẵn lòng trả biên cho chất lượng không khí giảm khi AQI tăng. Hình (b) minh hoạ hàm cầu hưởng thụ, D(AQI;z) được thiết lập từ hàm giá hưởng thụ. Từ độ dốc của hàm giá hưởng thụ ta tạo ra đường cầu dốc xuống. Diện tích nằm dưới đường cầu giữa AQ0 và AQ1 là WTP cho lượng chất lượng không khí tăng lên đó. Phương pháp đánh giá hưởng thụ chỉ áp dụng được và có ý nghĩa khi có thị trường bất động sản thật sự, nghĩa là có nhiều người mua và bán tạo nên thị trường cạnh tranh. Phương pháp cũng yêu cầu người mua nhà phải hiểu rõ chất lượng môi trường (hoặc bằng cách nhìn, ngửi hoặc các cách khác) trong khu vực mà họ dự định sinh sống. Như mọi phương pháp khác, áp dụng phương pháp này cũng có một số phức tạp và thách thức. Thị trường nhà, và giá, bị bóp méo bởi một số người (hoặc hiện tượng thị trường bong bóng có quá nhiều đầu cơ). Phương pháp đánh giá hưởng thụ cần lượng lớn số liệu cũng như các kỹ thuật kinh tế lượng cao cấp để giải quyết các vấn đề về thống kê. Vấn đề chung thường thấy là không dễ dàng đo lường các biến số môi trường. Cuối cùng, nhận thức của các cá nhân về chất lượng môi trường là chủ quan và chưa chắc được phản ánh trong giá trị tài sản. Mặc dù gặp phải những thách thức như vậy, đã có nhiều nghiên cứu được hoàn thành, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Các nghiên cứu này tính WTP dưới dạng hệ số co giãn: phần trăm thay đổi giá nhà khi có 1 phần trăm thay đổi mức ô nhiễm môi trường xunh quanh. Họ đã nghiên cứu nhiều loại ô nhiễm không khí và tìm ra các kết quả tương đương. Ví dụ, với ô nhiễm sulphur đioxyt, 1 phần trăm giảm độ tích tụ trong môi trường xunh quanh đem lại thay đổi trong giá nhà từ 0,06 đến 0,12 phần trăm. Đối với bụi ô nhiễm, hệ số co giãn có giá trị từ 0,05 đến 0,22 phần trăm. Barry Field & Nancy Olewiler 250
  8. Thị trường đại diện – Phương pháp Chi phí Du hành18 Một trong những phương pháp đầu tiên các nhà kinh tế học môi trường dùng để đánh giá nhu cầu hưởng thụ cảnh quan môi trường là phương pháp thị trường đại diện, là phương pháp sử dụng chi phí du hành làm đại diện cho giá. Mặc dù chúng ta không quan sát được con người mua các đơn vị hàng hóa chất lượng môi trường, chúng ta lại quan sát được cách họ đi du lịch để hưởng thụ tài nguyên môi trường, ví dụ đi nghỉ ngơi giải trí ở các công viên quốc gia, bơi và câu cá ở các hồ, sông, suối, xem thiên nhiên hoang dã v.v. Đi du lịch là tốn tiền, và cũng tốn thời gian. Các chi phí du hành này có thể làm đại diện cho cái giá mà con người phải trả để hưởng thụ được cảnh quan môi trường. Có thể sử dụng phương pháp chi phí du hành để xây dựng đường cầu cho các cảnh quan môi trường này. Bằng cách thu thập một số lượng lớn số liệu chi phí du hành, chúng ta có thể ước lượng giá sẵn lòng trả tổng cộng cho những cảnh quan môi trường cụ thể. Dĩ nhiên ngoài số liệu về chi phí du hành, chúng ta phải thu thập thêm các số liệu khác. Các gia đình có thể có rất nhiều yếu tố khác nhau chứ không chỉ chi phí du hành đến một công viên. Họ có thể có thu nhập khác nhau, số lần đến thăm công viên khác nhau, và các kinh nghiệm giải trí khác nhau. Do đó các cuộc khảo sát phải thu thập lượng lớn số liệu cho nhiều khách du lịch để có thể nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố này lên tỷ lệ đến thăm công viên một cách có ý nghĩa thống kê. Chúng ta có thể sử dụng phương pháp này để ước lượng lợi ích cải thiện chất lượng môi trường ở những điểm có khách du lịch đến thăm; ví dụ, ước lượng lợi ích cải thiện chất lượng nước tại một hồ nước dùng cho vui chơi giải trí sẽ làm câu cá dễ dàng hơn hoặc có nhiều động vật hoang dã đến hơn. Để làm việc đó chúng ta không chỉ thu thập số liệu chi phí du hành của du khách đến một địa điểm mà còn chi phí du hành đến các địa điểm khác có các đặc điểm tự nhiên khác nhau. Từ đó chúng ta có thể xây dựng đường cầu và sử dụng nó để tính WTP cho cải thiện chất lượng môi trường bằng cách đo sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng. Các bước thực hiện phương pháp Chi phí Du hành như sau. 1. Lấy mẫu khách du lịch đến các điểm khác nhau (công viên, khu vực vui chơi giải trí, hoặc khu vực hoang dã). Các địa điểm có các biến số chất lượng môi trường có thể đo được khác nhau. Chúng ta hỏi khách du lịch về: ƒ Họ tới từ đâu (thành phố nào, nước nào) ƒ Số khách trên một phương tiện chuyên chở tới ƒ Phương tiện chuyên chở (ô tô, máy bay, xe đò) ƒ Tổng thời gian đi đến và ở tại địa điểm ƒ Tần suất du lịch, thời gian của chuyến đi ƒ Các đặc điểm kinh tế xã hội ƒ Chi phí du hành trực tiếp (Chi phí di chuyển, thức ăn, chổ ở) ƒ Mục đích đi du lịch, sở thích du lịch. 18 Chúng ta chỉ xem xét chi phí du hành là một ví dụ của thị trường đại diện. Trong chương 10 chúng ta sẽ thảo luận phương pháp “hàng hóa xanh”. Barry Field & Nancy Olewiler 251