Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 10: Luật nghĩa vụ pháp lý, quyền sở hữu, thuyết phục đạo đức, hàng hóa xanh

Luật nghĩa vụ pháp lý, phân định quyền sở hữu, thuyết phục đạo đức, và hàng hóa xanh là
những ví dụ về phương pháp phi tập trung để nội hóa ngoại tác. Phương pháp phi tập
trung/phân quyền cho phép các cá nhân liên quan đến ô nhiễm môi trường tự giải quyết
vấn đề mỗi khi có các nguyên tắc rõ ràng về thủ tục và quyền được thiết lập thông qua hệ
thống pháp luật. Các chính sách quản lý môi trường như thuế, trợ cấp, giấy phép phát thải
có thể chuyển nhượng là ít phân quyền hơn bởi vì chúng đòi hỏi sự can thiệp của chính phủ
nhiều hơn dưới hình thức đặt ra quy định các mức thuế, mức trợ cấp, hoặc số giấy phép
phát thải có thể chuyển nhượng. Tuy nhiên, chúng vẫn cho phép các cá nhân quyết định
nên đối phó như thế nào với chính sách – ví dụ, cần phải giảm thải bao nhiêu. Tiêu chuẩn
môi trường là một chính sách rất tập trung: chính phủ quy định tiêu chuẩn và các chủ thể
gây ô nhiễm không có lựa chọn nào khác mà phải đáp ứng các tiêu chuẩn hoặc phải chịu
phạt nếu vi phạm. Chúng ta sẽ bắt đầu với phương pháp phi tập trung nhất trong miền
chính sách từ phi tập trung đến tập trung, và sau đó xem xét các công cụ đòi hỏi sự can
thiệp nhiều hơn của chính phủ trong các chương tiếp theo.
Hãy xem xét một ví dụ đơn giản. Giả sử có nhiều nhà máy công nghiệp quanh hồ nước. Có
một nhà máy chế biến thực phẩm, và nước hồ là một đầu vào quan trọng cho họat động của
nhà máy. Một nhà máy công nghiệp khác xả chất thải vào hồ. Thiệt hại ô nhiễm mà nhà
máy thứ nhất phải chịu có thể cân bằng như thế nào với chi phí xử lý của nhà máy thứ hai?
Phương pháp phi tập trung để xác định mức ô nhiễm hiệu quả của nước hồ là cứ để hai nhà
máy tự giải quyết với nhau. Hai nhà máy có thể thực hiện việc đó bằng cách đàm pháp
không chính thức hoặc thông qua tòa án. Phương pháp tập trung hơn đòi hỏi sự can thiệp
của chính phủ - từ việc đánh thuế chất thải đến việc quy định tiêu chuẩn chất lượng nước.
Cách tiếp cận phi tập trung có một số ưu điểm so với các cách tiếp cận chính sách khác:
 Các bên liên quan là những người tạo ra và chịu ngoại tác môi trường. Vì vậy họ có
động cơ tìm kiếm giải pháp đối với vấn đề môi trường.
 Những người liên quan có thể là những người có hiểu biết tốt nhất về thiệt hại và chi
phí xử lý và vì vậy có khả năng tốt nhất đề xác định mức ô nhiễm hiệu quả. 
pdf 17 trang hoanghoa 08/11/2022 5000
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 10: Luật nghĩa vụ pháp lý, quyền sở hữu, thuyết phục đạo đức, hàng hóa xanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_kinh_te_moi_truong_chuong_10_luat_nghia_vu_phap_ly.pdf

Nội dung text: Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 10: Luật nghĩa vụ pháp lý, quyền sở hữu, thuyết phục đạo đức, hàng hóa xanh

  1. Những vấn đề với việc sử dụng quyền sở hữu như là một phương pháp để nội hóa ngoại tác 1. Chi phí giao dịch. Việc sử dụng dòng sông hiệu quả ở ví dụ trên đây phụ thuộc vào việc đàm phán và thỏa thuận giữa các chủ thể liên quan. Chi phí giao dịch dưới hình thức chi phí đàm phán và chi phí thực hiện cùng với chi phí kiểm soát thỏa thuận có thể là vừa phải trong trường hợp này. Nhưng giả sử có hàng chục ngành sản xuất sử dụng dòng sông làm nơi chứa chất thải – và, thay vì chỉ có một ngành thủy sản, nhiều hộ gia đình và ngành sản xuất khác sử dụng dòng sông cho mục đích sinh hoạt và giải trí. Bây giờ đàm phán phải diễn ra giữa một bên với là hàng chục nhà máy gây ô nhiễm với bên kia là hàng ngàn người. Thật khó tưởng tượng mặc cả có thể xảy ra như thế nào. Chi phí giao dịch sẽ rất cao. 2. Tự do tiếp cận và “ăn theo”. Chất lượng nước sông là hàng hóa công đối với tất cả những người liên quan. Tại sao tôi lại phải trả tiền để cải thiện chất lượng nước trong khi hàng xóm lại hưởng lợi mà không phải trả gì cả? Vấn đề “ăn theo” thực sự làm mất cơ hội đạt được cân bằng hiệu quả xã hội, điểm mà chúng ta có thể đạt được thông qua phân định quyền sở hữu và thương lượng. Nếu hàng hóa môi trường càng mang tính chất công cộng nhiều thì phương pháp phân quyền càng có ít cơ may phát huy hiệu lực. Trường hợp đặc biệt nhất là khi chúng ta thưởng ngoạn tài nguyên môi trường tự do tiếp cận. Không thể xác định quyền sở hữu tư nhân cho tài nguyên tự do tiếp cận bởi vì chúng không có tính loại trừ. Bất cứ ai cũng có thể tiếp cận. 3. Chủ sở hữu tài sản không có khả năng nắm bắt được giá trị xã hội. Ngay cả trong những trường hợp xác định được quyền sở hữu tư nhân, tiến trình phải diễn ra như thế nào để chủ sở hữu có thể nắm bắt được giá trị xã hội đầy đủ của tài nguyên theo cách sử dụng tốt nhất. Giả sử một người sở hữu một hòn đảo trong Ba ngàn hòn đảo ở Hồ Huron. Có hai cách sử dụng: xây dựng khách sạn hoặc để hòn đảo hoang vu. Nếu người đó xây dựng khách sạn, anh ta sẽ có dòng tiền trực tiếp bởi vì thị trường du lịch phát triển mạnh ở khu vực này của thế giới và anh ta có thể hy vọng khách tham quan tìm thấy khách sạn của mình và trả tiền cho dịch vụ. Nhưng không có thị trường tương đương cho dịch vụ thiên nhiên hoang dã. Giá trị của hòn đảo như là một khu hoang dã có thể lớn hơn nhiều so với giá trị của nó như là một nơi tham quan, đo lường bằng tổng giá sẵn lòng trả của tất cả mọi người trên thế giới. Nhưng không có cách nào để họ có thể thể hiện giá trị đó; không có thị trường đối với thiên nhiên hoang dã như thị trường du lịch mà họ có thể đặt giá cho khách du lịch đến tham quan. Anh ta có thể cho rằng một tổ chức bảo tồn thiên nhiên có thể mua toàn bộ hòn đảo nếu giá trị của nó như là khu bảo tồn lớn hơn giá trị của nó như là một nơi tham quan. Nhưng tổ chức bảo tồn thiên nhiên hoạt động dựa vào sự đóng góp tự nguyện, và thực chất những hòn đảo và những vùng đất khác là hàng hóa công cộng. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, khi có liên quan đến hàng hóa công cộng, đóng góp tự nguyện để duy trì hàng hóa đó thường ít hơn nhiều so với giá trị thực của nó, vì vấn đề “ăn theo”. Kết quả cuối cùng là khi anh ta, người chủ tài sản hy vọng thu được toàn bộ giá trị tiền tệ của đảo như là một nơi tham quan, không thể thu được toàn bộ giá trị xã hội của nó nếu anh giữ nó như là khu bảo tồn. Ví dụ này là dạng địa phương của một vấn đề lớn hơn có ý nghĩa toàn cầu. Trong những năm gần đây người ta chú ý nhiều đến đa dạng sinh học và quỹ gen quý hiếm của hàng triệu loài động thực vật trên thế giới. Một phần lớn những loài này sống ở các nước đang phát triển. Nhưng ở những quốc gia này, áp lực phát triển dẫn đến việc khai Barry Field & Nancy Olewiler 11
  2. thác đất và phá hủy môi trường sống diễn ra ở tốc độ cao. Khi chủ đất ở các quốc gia này xem xét các chọn lựa, họ đánh giá giá trị của đất theo các cách sử dụng khác nhau. Không may, hiện tại không có cách nào nắm bắt được giá trị của đất như là môi trường sống cho các loài. Không tồn tại thị trường kinh tế để bán các dịch vụ này; nếu chúng thực sự tồn tại, chủ đất có thể thu được lợi ích cá nhân từ việc không phát triển đất hoặc sử dụng đất theo cách bảo tồn giống loài. Trong hoàn cảnh này cơ quan quản lý công có thể tạo ra cầu cho thị trường. Có thể thực hiện bằng cách trả tiền cho chủ đất một khoản bằng giá trị sinh thái của đất, nếu như những giá trị sinh thái này không bị các chủ đất làm suy giảm. Tất nhiên, sẽ gặp muôn vàn khó khăn trong việc đo lường giá trị sinh thái này với một mức độ chính xác nào đó, cũng như trong việc tìm nguồn tài trợ để trả cho những dịch vụ này. Nhưng nếu không có thị trường như vậy hoặc các thể chế tương tự thị trường, thể chế quyền sở hữu tư nhân không thể cho phép xã hội đạt được lượng bảo tồn và chất lượng môi trường hiệu quả. THUYẾT PHỤC ĐẠO ĐỨC Thuyết phục đạo đức đề cập những chương trình thuyết phục khuyến khích ý thức của con người về giá trị tinh thần hoặc bổn phận công dân để người đó tự giác không làm những việc gây suy thoái môi trường. Trường hợp kinh điển là sự thành công của áp lực công cộng đối với việc thải rác. Bên cạnh những hình phạ, các chương trình chống thải rác không dựa vào đe dọa hình phạt mà dựa phần lớn vào việc kêu gọi ý thức của mọi người về đạo đức công dân. Trong những ngày đầu thực hiện phương pháp tái chế chất thải, cộng đồng thường dựa vào các nỗ lực tự nguyện nhằm kêu gọi thói quen tốt của công dân. Trong một số trường hợp, những nỗ lực đó thành công, trong nhiều trường hợp bị thất bại thảm hại. Ngày nay chúng ta chuyển theo hướng các chương trình tái chế bắt buộc, tuy nhiên chúng cũng phụ thuộc nhiều vào việc thuyết phục đạo đức để có được tỷ lệ tuân thủ cao. Kêu gọi hành vi tốt của công dân có thể là chính sách công có hiệu quả trong nhiều trường hợp. Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp thải rác mà những người vi phạm thường phân tán trong dân cư làm cho việc giám sát và phát hiện vi phạm là không thực tế. Ưu điểm của thuyết phục đạo đức là nó có thể có ảnh hưởng lan tỏa. Trong khi thuế phát thải đối với một chất thải nào đó không có ảnh hưởng đến việc phát thải các chất khác, kêu gọi thói quen tốt công dân có thể có ảnh hưởng phụ đến các tình huống khác. Thói quen tốt của công dân từ cảm nhận tốt về việc không thải rác (khi mà việc không thải rác rất dễ đánh lừa người khác) có thể nhân rộng cho các trường hợp khác khi mà công dân đó có thể trốn chạy sau khi gây ra những hành vi xâm hại môi trường. Những người có ý thức cộng đồng về môi trường ít khi bỏ dầu nhờn ô tô đã sử dụng hoặc các hộp sơn còn dư vào rác thải gia đình, hoặc tắt thiết bị hạn chế ô nhiễm không khí của xe hơi để tiết kiệm nhiên liệu. Tuy nhiên việc sử dụng thuyết phục đạo đức như là phương pháp chính sách chủ yếu lại có vấn đề. Từ giác độ đạo đức, không phải tất cả mọi người đều có trách nhiệm như nhau. Một số người sẽ có phản ứng với những tranh luận về đạo đức, một số ngưòi khác lại không phản ứng gì. Vì vậy, gánh nặng chính sách sẽ đè lên những người nhạy cảm về đạo đực hơn, những người ít nhạy cảm về đạo đức sẽ “ăn theo” những người khác, hưởng lợi từ sự cẩn thận về đạo đức của người khác và chối bỏ sự chia sẻ trách nhiệm công bằng. Điều Barry Field & Nancy Olewiler 12
  3. này tệ hại ở chỗ nó có tác động lâu dài. Nếu những người nhạy cảm đạo đức phải đương đầu với những cảnh tượng “ăn theo” tràn lan về đạo đức, điều này có thể làm xói mòn mức độ chung về trách nhiệm và đạo đức công dân trong lâu dài. Vì vậy mặc dù có hiệu lực trong ngắn hạn, kêu gọi sự đáp ứng nhiệt tình về đạo đức của con người có thể có ảnh hưởng ngược lại trong dài hạn. Điều này tương tự như việc người dân sẽ không còn tin tưởng khi khi luật môi trường mới tiếp tục được ghi vào sách nhưng không được thực thi. Thói quen đạo đức tốt chính bản thân nó là một phần thưởng, nếu những người khác biết được điều đó thì tốt hơn. Khuyến khích tinh thần sẽ hiệu quả hơn trong việc giảm ô nhiễm khi sẵn có thông tin về mức ô nhiễm và sự thay đổi của nó. Vì vậy, như là phần bổ sung cho các chương trình vận động về môi trường, những nỗ lực đo lường và công bố mức thải cũng như những nỗ lực giảm thải là một phần bổ trợ quan trọng. Những yếu tố này là lý do của những nỗ lực gần đây của các nhóm môi trường ở Canada và Hoa kỳ để phát triển bộ luật đạo đức chống ô nhiễm mà các công ty có thể đăng ký tự nguyện. Canada cũng có kiểm kê quốc gia hàng năm về chất thải ô nhiễm (NPRI) cung cấp những thông tin chung về xả thải và sự phát tán chất thải của khoảng 240 hợp chất độc hại từ các nguồn thải cá nhân và công cộng. Việc sử dụng thuyết phục đạo đức như là một công cụ trong quản lý môi trường cũng dễ bị chỉ trích. Trong thời đại mà các đoàn thể xã hội càng nhiều và mức độ phá hoại môi trường cao, những nhà hoạch định chính sách cứng rắn bị lôi kéo bởi các chính sách môi trường mạnh mẽ. Đó có thể là một sai lầm. Rõ ràng là chúng ta không thể phụ thuộc nặng nề vào công cụ thuyết phục đạo đức để đạt được mức giảm có ý nghĩa về ô nhiễm không khí ở khu vực hành lang Windsor-Montreal, hoặc giảm mức sử dụng hóa chất nông nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Nhưng trong việc tìm kiếm những chính sách công mới có hiệu lực để giải quyết những vấn đề ô nhiễm môi trường cụ thể, có lẽ chúng ta đã đánh giá thấp sự vai trò của đạo đức xã hội và ý thức công dân. Nền tảng đạo đức xã hội thuận lợi cho phép ban hành những chính sách mới và việc quản lý và thực thi các chính sách đó trở nên dễ dàng hơn. Từ đó chúng ta cũng có thể thấy được tầm quan trọng của các chính trị gia và những người hoạch định chính sách cho việc thực hiện những chương trình làm lành mạnh môi trường đạo đức thay vì làm xói mòn nó. PHẢN ỨNG CỦA THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG: HÀNG HÓA XANH Mỗi khi quyền sở hữu được thiết lập rõ ràng, nghĩa là chúng hạn chế lượng ô nhiễm hoặc định rõ được mức độ chất lượng môi trường, thị trường mới sẽ xuất hiện để cung cấp hàng hóa chất lượng môi trường. Người tiêu dùng có thể sẵn lòng trả cho hàng hóa đem lại cho họ cùng một mức độ hài lòng như nhau nhưng ít gây thiệt hại môi trường trong quá trình sản xuất hoặc sử dụng. Nếu nhà máy có thể sản xuất được những hàng hóa như vậy thì thị trường “hàng hóa xanh” có thể xuất hiện. Ở Canada hiện nay một số hàng hóa xanh đang được bán. Ví dụ, chúng bao gồm hàng gia dụng như bột giặt không có photphat, ắc quy không có thủy ngân, giấy được sản xuất từ nguyên liệu tái chế, và các thiết bị như tủ lạnh và lò sưởi tiết kiệm năng lượng. Cũng có thể có đầu vào xanh cho quá trình sản xuất. Hàng hóa xanh giảm ô nhiễm như thế nào? Barry Field & Nancy Olewiler 13
  4. Hình 10-4: Chi phí xã hội biên của hàng hóa xanh so với hàng hóa ô nhiễm $ SS SP $ SS SP P0 P1 D0 D D1 0 0 Q1 Q2 (a) Khối lượng giấy được sản xuất sử (b) Khối lượng giấy được sản xuất sử dụng nguyên liệu nguyên sinh dụng nguyên liệu tái chế Xem xét Hình 10-4. Biểu đồ (a) thể hiện thị trường sản phẩm giấy được sản xuất bằng nguyên liệu nguyên sinh và Biểu đồ (b) minh họa thị trường sản phẩm giấy sản xuất từ nguyên liệu tái chế. Chúng ta giả định rằng nguyên liệu tái chế làm cho quá trình sản xuất ít gây ô nhiễm hơn so với nguyên liệu nguyên sinh. Mỗi biểu đồ minh họa hai đường cung: SP thể hiện chi phí sản xuất tư nhân biên; SS chi phí xã hội biên (là tổng chi phí tư nhân biên và chi phí ngoại tác biên, như chúng ta đã thấy ở Chương 4). Mức độ ô nhiễm của hai loại sản phẩm được thể hiện bởi chi phí xã hội biên cao hơn đối với giấy được sản xuất bằng nguyên liệu nguyên sinh. Bây giờ chúng ta sẽ bổ sung thêm các đường cầu. Giả sử, lúc đầu thị trường chỉ cung cấp giấy được sản xuất bởi quy trình gây ô nhiễm cao. Như thể hiện ở Biểu đồ (a) với đường cầu D0, giá cả cân bằng thị trường là P0 và khối lượng sản phẩm là Q0. Bây giờ người sản xuất giấy ít gây ô nhiễm hơn tham gia thị trường. Nếu người tiêu dùng cảm thấy rằng giấy tái chế là hàng thay thế tốt cho giấy thông thường, sẽ có cầu cho giấy tái chế. Nếu hai hàng hóa là hàng hóa thay thế, cầu về giấy gây ô nhiễm nhiều hơn sẽ dịch chuyển sang trái khi giấy tái chế được giới thiệu ra thị trường. Cân bằng thị trường mới được thiết lập với mức sản xuất giấy thông thường thấp hơn (Q1) và được bán với mức giá thấp hơn (P1). Sẽ có cầu về giấy tái chế. Nếu người tiêu dùng càng muốn thay thế giấy tái chế cho giấy thông thường, đường cầu ở Biểu đồ (a) càng dịch chuyển sang trái. Mức dịch chuyển phụ thuộc vào thị hiếu của người tiêu dùng, chi phí sản xuất tư nhân biên v.v. Nếu giấy tái chế chiếm lĩnh một phần thị trường thì ô nhiễm sẽ giảm xuống. Điều này xảy ra vì đường chi phí giảm ô nhiễm biên dịch chuyển xuống phía dưới. Tại sao? Xem lại cách thức xác định chi phí giảm ô nhiễm biên gộp (MAC) trong Chương 5. Thay vì chỉ có một phương pháp sản xuất với lượng ô nhiễm nhiều cho mỗi đơn vị sản phẩm, bây giờ chúng ta có sản phẩm giấy được sản xuất bởi hai loại nhà máy: một loại với mức thải thấp hơn nhiều trên mỗi đơn vị sản phẩm. Nếu khối lượng sản phẩm giấy không thay đổi, tổng ô nhiễm chắc chắn phải giảm. Biểu đồ 10-5 thể hiện điều này, với MAC1 là chi phí giảm ô nhiễm biên gộp của chỉ gồm những nhà cung cấp gây ô nhiễm cao và MAC2 là đường chi phí biên mới khi có những nhà cung cấp có cường độ ô nhiễm bình quân cho mỗi đơn vị sản phẩm thấp hơn. Chúng ta thấy rằng mức ô nhiễm giảm từ E1 xuống E2. Điều này có nghĩa bất kể đường thiệt hại biên nằm ở vị trí nào, ô nhiễm là thấp hơn thậm chí ngay khi Barry Field & Nancy Olewiler 14
  5. không có chính sách của nhà nước thiết kế để đạt mức phát thải hiệu quả. Chú ý rằng đường thiệt hại biên không dịch chuyển, bởi vì mối quan hệ giữa mỗi đơn vị phát thải và thiệt hại môi trường không thay đổi. Hình 10-5: Hàng hóa xanh ảnh hưởng chi phí xử lý biên như thế nào $ MAC1 MD MAC2 0 0 E2 E1 Lượng phát thải (tấn mỗi năm) Hàng hóa xanh gây ô nhiễm ít hơn trên mỗi đơn vị sản phẩm so với hàng hóa có cường độ ô nhiễm cao. Sử dụng hàng hóa xanh sẽ làm cho đường MAC dịch chuyển từ MAC1 sang MAC2. Thậm chí khi không có chính sách môi trường, sự thay thế này sẽ làm giảm phát thải từ E1 xuống E2. Một nền kinh tế có tỷ lệ sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh cao hơn sẽ có ít ô nhiễm hơn nền kinh tế sử dụng hàng hóa có cường độ ô nhiễm cao. Tất nhiên chính phủ có thể khuyến khích sản xuất sản phẩm xanh. Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này nhiều hơn ở Chương 12. Điểm chính0 ở đây là thậm chí ngay khi không có can thiệp của chính phủ, nếu tồn tại cầu cho sản phẩm xanh và có công nghệ cần thiết, chất lượng môi trường sẽ cao hơn nếu những hàng hóa này được sản xuất và tiêu dùng. Tóm lại: Sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh giảm cường độ ô nhiễm trong hàng hóa của nền kinh tế (làm đường MAC dịch chuyển xuống dưới), và dẫn đến mức chất lượng môi trường cao hơn. Barry Field & Nancy Olewiler 15
  6. TÓM TẮT Trong chương này, chúng ta đã khảo sát những ví dụ về cách tiếp cận phi tập trung để cải thiện chất lượng môi trường. Cách tiếp cận đầu tiên dựa vào quy định về nghĩa vụ pháp lý, yêu cầu chủ thể gây ô nhiễm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trên lý thuyết, những áp lực của nghĩa vụ pháp lý có thể làm cho người gây ô nhiễm tiềm năng nội hóa chi phí ngoại tác. Bằng cách cân nhắc khoản bồi thường và chi phí xử lý, chủ thể gây ô nhiễm có thể đạt tới mức phát thải hiệu quả. Trong khi học thuyết về nghĩa vụ pháp lý có thể hoạt động tốt trong những trường hợp ô nhiễm đơn giản có ít người liên quan và có quan hệ nhân quả rõ ràng, chúng dường như không hoạt động với những vấn đề môi trường lớn hơn, phức tạp về mặt kỹ thuật của xã hội hiện đại. Cách tiếp cận thứ hai phụ thuộc vào thể chế quyền sở hữu tư nhân. Nhìn từ giác độ này, ngoại tác môi trường là vấn đề chỉ vì quyền sở hữu môi trường thường không được quy định rõ ràng. Bằng cách thiết lập quyền sở hữu rõ ràng, chủ sở hữu và những người khác muốn sử dụng tài sản môi trường cho các mục đích khác nhau có thể đàm phán thỏa thuận để cân bằng chi phí của các phương án khác nhau. Chính vì vậy thỏa thuận giữa các bên có thể trên lý thuyết đem lại mức phát thải hiệu quả. Nhưng vấn đề chi phí giao dịch, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hàng hóa công hoặc khía cạnh tiếp cận tự do của chất lượng môi trường, và sự thiếu vắng thị trường dịch vụ môi trường đã cản trở cách thức dựa vào thể chế quyền sở hữu truyền thống để giải quyết các vấn đề chất lượng môi trường. Ở Chương 13, chúng ta sẽ thấy rằng một số biến thể mới của phương pháp dựa vào quyền sở hữu có thể có triển vọng áp dụng rất to lớn. Cách tiếp cận thứ ba là thuyết phục đạo đức, có thể hữu ích khi không thể đo lường được lượng phát thải từ các nguồn cụ thể. Chúng ta cũng đã thảo luận vấn đề “ăn theo”, cũng như thảo luận vấn đề công khai như là một phương tiện khuyến khích hành vi đạo đức trong những vấn đề môi trường. Cuối cùng, chúng ta khảo sát việc khu vực kinh tế tư nhân tham gia sản xuất hàng hóa xanh để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đối với những sản phẩm có cường độ ô nhiễm ít. Tỷ lệ hàng hóa xanh càng lớn trong tổng sản lượng của nền kinh tế, thì mức thải càng thấp và chất lượng môi trường càng cao. BÀI TẬP 1. Với ví dụ minh họa ở Hình 10-1, hãy chứng minh rằng cân bằng hiệu quả xã hội tối thiểu hóa tổng số tiền chi trả của nhà máy hóa chất (tiền bồi thường cho ngành đánh bắt cá hồi cộng chi phí giảm ô nhiễm) so với bất cứ mức thải nào khác. 2. Giả sử hàm MD trong ví dụ về nhà máy hóa chất và ngành thủy sản là MD = 8E. Tính mức cân bằng hiệu quả xã hội và xác định liệu việc phân định quyền sở hữu dòng sông cho nhà máy hay ngành thủy sản có tối đa hóa tổng lợi ích ròng sau khi các bên mặc cả đạt được giải pháp hiệu quả xã hội. Hãy giải thích theo trực giác tại sao điều này lại khác với ví dụ ở trong chương. 3. Giải thích và minh họa bằng đồ thị mức độ thay thế giữa hàng hóa xanh và hàng có cường độ ô nhiễm cao ảnh hưởng mức độ chất lượng môi trường. Barry Field & Nancy Olewiler 16
  7. 4. Phân định trách nhiệm thiệt hại môi trường và phân định quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường cả hai đều dẫn đến một cân bằng hiệu quả xã hội (giả định không có chi phí giao dịch). Lợi ích ròng tăng lên cho mỗi bên có giống nhau không? Hãy chứng minh bằng đồ thị hoặc phương pháp đại số. CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Trong trường hợp chất gây ô nhiễm có ảnh hưởng không rõ ràng đối với con người, tòa án có thể buộc bên bị thiệt hại chịu trách nhiễm dẫn chứng là họ bị tổn hại hoặc buộc bên gây ô nhiễm chịu trách nhiễm dẫn chứng chỉ rõ rằng chất gây ô nhiễm là vô hại. Điều này sẽ làm cho hệ thống luật nghĩa vụ pháp lý hoạt động khác nhau như thế nào? 2. Tai nạn do xe tải chở chất thải độc hại gây nên đã trở nên khá phổ biến. Giả sử thủ phạm bị quy trách nhiệm bồi thường một khoản bằng thiệt hại bình quân của tất cả các tai nạn như vậy. Điều này có làm cho các công ty xe tải phòng ngừa hiệu quả những tai nạn như vậy không? 3. Tại sao tiền bồi thường sau thỏa thuận (side payments) giữa các bên trong tiến trình thỏa thuận có thể đạt hiệu quả xã hội? (Side payment là khoản chuyển nhượng từ một bên cho bên kia sau khi cân bằng đạt được thông qua thương lượng). Barry Field & Nancy Olewiler 17