Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 1: Kinh tế môi trường là gì?

Kinh tế môi trường nghiên cứu các vấn đề về môi trường với cách nhìn và phương pháp
phân tích của kinh tế học. Bạn có thể vẫn nghĩ rằng kinh tế học hầu như chỉ nói về các
quyết định trong kinh doanh và làm thế nào để có được lợi nhuận trong hệ thống Tư bản
chủ nghĩa. Điều này không đúng trong trường hợp này. Kinh tế học nghiên cứu tại sao và
làm thế nào mà con người – có thể là người tiêu thụ, nhà sản xuất, các tổ chức phi lợi
nhuận hay các cơ quan nhà nước – đưa ra các quyết định sử dụng các nguồn tài nguyên có
giá trị. Kinh tế học được chia thành kinh tế vi mô – nghiên cứu hành vi của các cá nhân
hay các nhóm nhỏ và kinh tế vĩ mô – nghiên cứu hoạt động kinh tế của toàn bộ nền kinh tế.
Kinh tế môi trường có nguồn gốc từ cả hai chuyên ngành này, nhưng chủ yếu vẫn là từ
kinh tế vi mô. Nghiên cứu kinh tế môi trường, cũng giống như tất cả các môn kinh tế học
khác, quan tâm đến vấn đề cơ bản là phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các
mục đích sử dụng có tính cạnh tranh. Các khái niệm về sự khan hiếm, chi phí cơ hội, sự
đánh đổi, lợi ích biên và chi phí biên là chìa khóa để hiểu các vấn đề môi trường và cách
thức giải quyết các vấn đề đó.
Kinh tế môi trường sử dụng những khái niệm quen thuộc trong kinh tế học. Sự khác biệt
giữa kinh tế môi trường với các môn học kinh tế khác nằm ở chỗ kinh tế môi trường tập
trung nghiên cứu xem các hoạt động kinh tế ảnh hưởng như thế nào đến môi trường tự
nhiên – không khí, nước, đất và vô số các giống loài sinh vật. Các quyết định kinh tế của
con người, các nhà sản xuất và chính phủ có thể gây ra những ảnh hưởng có hại đến môi
trường tự nhiên. Việc chôn lấp chất thải rắn vào môi trường tự nhiên đã tạo ra ô nhiễm và
suy thoái các hệ sinh thái. Điều đó dẫn đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên không tối
ưu. Tại sao điều này lại xảy ra trong hệ thống kinh tế? Tại sao con người không tính đến
các ảnh hưởng từ các hoạt động kinh tế lên môi trường thiên nhiên? Kinh tế môi trường sẽ
trả lời các câu hỏi này. Điều quan trọng không kém là kinh tế môi trường nghiên cứu và
đánh giá các phương cách khác nhau để đạt được mục đích sử dụng tối ưu xã hội tất cả các
nguồn tài nguyên, trong đó có tài nguyên môi trường. 
pdf 21 trang hoanghoa 08/11/2022 4820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 1: Kinh tế môi trường là gì?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_kinh_te_moi_truong_chuong_1_kinh_te_moi_truong_la_g.pdf

Nội dung text: Tài liệu Kinh tế môi trường - Chương 1: Kinh tế môi trường là gì?

  1. Môi trường và Tăng Trưởng: Sự bền vững theo thời gian Sự bền vững không chỉ là sự chọn lựa trong một năm mà còn là cả quá trình theo thời gian. Đường PPF sẽ không giữ mãi ở một mức cố định khi mà các điều kiện như kỹ thuật sản xuất và suy thoái môi trường thay đổi theo thời gian. Chúng ta minh họa hai khả năng như sau. Hình 1-2 thể hiện sự đánh đổi của xã hội trong thời gian 50 năm. Biểu đồ (a) thể hiện kịch bản bi quan. Giả sử chúng ta khai thác lượng lớn trữ lượng tài nguyên thiên nhiên và không thể dùng tư bản vật chất và con người để thay thế các nguồn tài nguyên này. Sự suy giảm rõ rệt của vốn môi trường gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng lên khả năng bền vững của nền kinh tế. Đó là vì ô nhiễm nhiều đến nỗi gây nên những thiệt hại không thể đảo ngược, hay vì ô nhiễm kéo dài ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Các kết quả này có thể là hậu quả của việc lưạ chọn ở điểm A trên đường PPF trong hình 1-1 trong những năm trước. Hậu quả là, đường PPF cho đến năm 2050 sẽ nằm phía dưới đường PPF ngày nay. Cho dù chọn sản xuất ở bất kỳ điểm nào trên đường PPF đi nữa, xã hội cũng phải hoặc tiêu thụ ít hơn hoặc chịu chất lượng môi trường thấp hơn so với hiện tại. Nếu họ cố giữ mức sản xuất ở c2, chất lượng môi trường sẽ giảm xuống e3. Ngược lại, nếu giữ chất lượng môi trường ở mức e2 thì chỉ có thể sản xuất và tiêu thụ hàng hóa ở mức c3. Biểu đồ (b) thì lạc quan hơn. Giả sử chúng ta phát triển kỹ thuật mới để sản xuất một lượng lớn năng lượng từ sự làm nguội. Những ngoại tác môi trường liên quan đến nguồn năng lượng mới này là không đáng kể. Đường PPF của chúng ta hiện tại dịch chuyển lên, phản ánh xã hội có khả năng sản xuất được nhiều hàng hóa hơn với mức chất lượng môi trường cao hơn. Chú ý rằng độ nghiêng của đường PPF cho thấy ở c2 – cùng một mức sản xuất xã hội lựa chọn ở năm gốc – chúng ta có chất lượng môi trường e4 cao hơn e2, bởi vì đã phát triển nguồn năng lượng không gây ô nhiễm. Ngược lại, cùng với mức chất lượng môi trường ở e2 sản lượng có thể ở c4. Các trường hợp này cho thấy tương lai phụ thuộc vào sự lựa chọn của chúng ta ngày hôm nay. Liệu có cách nào để biết PPF của một quốc gia sẽ thay đổi như thế nào theo thời gian khi quốc gia đó phát triển và tăng trưởng? Đâu là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chất lượng môi trường? Tốc độ tăng trưởng cao – tổng hàng hóa quốc nội GDP tăng – có hàm ý suy thoái môi trường tăng hay không hay là kết quả sẽ ngược lại? Một cách để trả lời câu hỏi này là là xem chất lượng môi trường thay đổi như thế nào ở các nước có mức thu nhập khác nhau. Hoặc là, có thể chọn một quốc gia và xem chất lượng môi trường thay đổi như thế nào theo thời gian khi thu nhập tính trên đầu người gia tăng. Barry Field & Nancy Olewiler 11
  2. Sản lượng C2 C3 e3 e2 Chất lượng môi trường (a) Kịch bản bi quan: PPF trong 50 năm tới Sản lượng C4 C2 e2 e4 Chất lượng môi trường (b) Kịch bản lạc quan: PPF trong 50 năm tới Hình 1-2: Hai viễn cảnh của PPF trong 50 năm tới Đường PPF trong biểu đồ (a) trình bày kịch bản bi quan trong đó đường PPF dịch chuyển xuống phía dưới. Điều này có nghĩa là quốc gia này không còn có thể tiêu dùng vừa ở c2 vừa ở e2 được nữa, một trong hai điểm này phải giảm đi. Biểu đồ (b) lạc quan hơn. Đường PPF dịch chuyển lên do tiến bộ kỹ thuật. Việc tiêu thụ hàng hóa và chất lượng môi trường giờ đây đều có thể tăng theo thời gian. Các đường PPF của những quốc gia khác nhau sẽ có dạng như thế nào? Các nước khác nhau rất nhiều về thu nhập tính theo đầu người, về mức phát triển, và vì vậy khác nhau trong sự đánh đổi giữa chất lượng môi trường và hàng hóa dịch vụ. Có nhiều lý luận cho rằng các nước đang phát triển không thể theo đuổi được mức chất lượng môi trường cao. Barry Field & Nancy Olewiler 12
  3. Theo quan điểm này, PPF của các nước đang phát triển sẽ nằm bên dưới đường PPF của các nước phát triển như hình 1-3. Sản lượng Các nước phát triển Các nước đang phát triển Chất lượng môi trường Hình 1-3 Đường giới hạn khả năng sản xuất của các nước phát triển và các nước đang phát triển Với cùng mức sản lượng hàng hóa thị trường, các nước đang phát triển phải đánh đổi bằng chất lượng môi trường nhiều hơn so với một nước đã phát triển. Ở C1 chất lượng môi trường là e2 thay vì là e1. Nếu thu nhập của nước đang phát triển tăng theo thời gian, họ có thể cải thiện chất lượng môi trường nếu như đường PDF nâng lên như của các nước đã phát triển. Trường hợp này có thể là do sự khai thác tài nguyên trong quá khứ, hoặc áp lực dân số hoặc kỹ thuật quá đơn giản. Để đạt được mức thu nhập và sản xuất hàng hóa và dịch vụ cao, các nước đang phát triển phải đối mặt với mức chất lượng môi trường thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Ví dụ, để các nước đang phát triển đạt được mức hàng hóa trên thị trường là c1, họ phải giảm mức chất lượng môi trường xuống e2. Còn các nước phát triển, vì các yếu tố đã được đề cập trước, có thể có mức hàng hóa thị trường là c1 với mức chất lượng môi trường cao là e1 thay vì e2. Nhân tố chính trong lập luận này là hàng hóa và chất lượng môi trường có thể thay thế cho nhau đối với các nước đang phát triển. Điều này có đúng không? Giả sử rằng khi các nước phát triển và thu nhập gia tăng thì chất lượng môi trường và hàng hóa sẽ bổ sung cho nhau. Sự phát triển của kỹ thuật và tăng trưởng sản xuất có thể tách riêng các ngành kinh tế sử dụng tài nguyên ra khỏi phần còn lại của nền kinh tế, chúng ta cần ít nguồn lực sơ cấp để sản xuất hàng hóa và dịch vụ hơn. Xã hội sẽ sẵn lòng và có khả năng chi tiêu nhiều hơn từ thu nhập của họ để bảo vệ môi trường khỏi sự suy thoái và giải quyết những thiệt hại đã gây ra. Thêm nữa, khi thu nhập của mọi người tăng lên, họ có thể thay đổi cách thức tiêu thụ, hưởng thụ nhiều những hoạt động hướng tới bảo tồn tài nguyên thiên nhiên (ví dụ như giải trí, ngắm chim cảnh, đi bộ v.v.) hơn là các hoạt động sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Môi trường có thể được xem là hàng hóa co giãn theo thu nhập (income elastic good). Mọi người sử dụng những hàng hóa gắn với sự cải thiện chất lượng môi trường nhiều hơn khi thu nhập của họ tăng lên. Họ có thể đủ sức làm điều đó bởi vì họ đã đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, như thực phẩm, nước sạch, phương tiện vệ sinh và nhà ở. Họ có thể gây áp lực để chính phủ ban hành những quy định môi trường nhằm bảo vệ môi trường tốt hơn. Barry Field & Nancy Olewiler 13
  4. Điều này sẽ dẫn đến những lựa chọn xã hội đem lại mức chất lượng môi trường cao hơn. Đường PPF lúc đó sẽ bắt đầu dịch chuyển lên trên như những nước phát triển. Khi thu nhập tăng, chất lượng môi trường cũng sẽ tăng. Đường Kuznets môi trường Các nhà kinh tế đã nghiên cứu dữ liệu chất lượng môi trường của các nước có mức thu nhập khác nhau. Mục tiêu là để xem khi thu nhập thay đổi thì chất lượng môi trường có thay đổi một cách hệ thống không. Phương pháp thống kê được sử dụng để khám phá ra các mối liên hệ. Các nghiên cứu này cho thấy có các mối liên hệ giữa mức thu nhập và các thước đo chất lượng môi trường khác nhau. Mối liên hệ này được gọi là đường Kuznets môi trường (EKC), được đặt theo tên của một nhà kinh tế đã tìm thấy mối quan hệ giữa thu nhập và bình đẳng xã hội. Hình 1-4 cho thấy có ba loại liên hệ trong đường EKC: 1. EKC giảm đều khi thu nhập tăng. Áp dụng cho lĩnh vực nước sạch, nhà vệ sinh và mức sulphur dioxide trong những năm 1990. Các kết quả về nước và nhà vệ sinh cho thấy đây là những hàng hóa thông thường – nghĩa là khi thu nhập tăng mọi người sẵn lòng trả cao hơn cho hàng hóa này. Còn kết quả cho sulphur dioxide vào những năm 1990 có thể là do tác động của các quy định về phát thải, đặc biệt là tại các nước phát triển. 2. EKC lúc đầu tăng sau đó giảm theo thu nhập. Ví dụ SO2 vào những năm 1980 và CO2 vào những năm 1990. Đường SO2 cho thấy quá trình phát triển trong giai đoạn đầu dẫn đến gia tăng ô nhiễm không khí, nhưng khi thu nhập tăng theo thời gian thì có sự chuyển đổi sang các loại hình công nghệ sản xuất sạch hơn, cũng các cộng đồng ở các nước gia tăng yêu cầu kiểm soát ô nhiễm. Có sự khác biệt lớn trong lượng CO2 ước tính giữa những năm 1980 và 1990 nên khó có thể suy diễn lý do trong trường hợp này. Cân bằng trong lâm nghiệp không phải là tin tốt lành cho môi trường. Sự cân bằng cho thấy diện tích che phủ rừng tăng thì thu nhâp tăng lên tới mức khoảng 20.000 USD tính trên đầu người, nhưng sau đó bắt đầu giảm bớt. Đây là bằng chứng của việc sử dụng không bền vững các nguồn tài nguyên. 3. EKC tăng theo thu nhập. Ví dụ biểu diễn phát thải CO2 tính trên đầu người vào những năm 1980. Phát thải CO2 tăng là kết quả từ nhu cầu năng lượng hóa thạch tăng đi cùng với quá trình phát triển – Nhưng chú ý rằng EKC có lẽ đang thay đổi theo thời gian, phản ánh việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên mỗi đơn vị GDP. Barry Field & Nancy Olewiler 14
  5. (a) Sự thiếu vệ sinh (%), năm 1997 và những năm 1980 140 Điều kiện vệ sinh 120 được cải thiện liên 100 tục khi thu nhập trên đầu người 80 tăng trong cả hai 60 gia đoạn, nhưng 1980s theo % thiếu vệ 40 sinh giảm mạnh 20 vào năm 1997. 0 1997 % dân số dân % sống mất vệ sinh - 20 -10.000 0 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 GDP tính trên đầu người (b) Nước uống không an toàn (%), năm 1997 và những năm 1980 sạch Cung cấp nước 100 sạch được cải 80 thiện liên tục khi thu nhập tăng. 60 Điều này cũng xảy 1980s 40 ra ở mức thu nhập theo đầu người 20 thấp vào năm 0 1997 hơn là vào những năm 1980 - 20 1997 % dân số sử dụng nước không %sửsốdân nước dụng -10.000 0 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 GDP tính trên đầu người Hình 1-4 Đường Kuznets môi trường được ước tính vào những năm 1980 và 1990 Những đường EKC chỉ ra mối quan hệ giữa thu nhập tính theo đầu người với một chỉ số môi trường. Người ta tìm thấy một loạt các mối quan hệ khác nhau, như được mô tả trong những khung trên đây. Barry Field & Nancy Olewiler 15
  6. (c) Thay đổi diện tích che phủ rừng (%), 1990-1995 Trong những năm 1990 đường EKC 4 hình vòng cung g g 3 cho thấy diện tích che phủ rừng gia 2 tăng khi thu nhập 1 tính trên đầu người từ mức thấp 0 1995(%) chuyển qua cao, – - 1 sau đó thì giảm xuống. 1990 - 2 - 3 Thayđổi diện tích phủ rừn - 4 -10.000 0 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 GDP tính trên đầu người (d) Phát thải SO2 ở khu vực đô thị, thập niên 1980 và 1990 EKC của SO2 có hình 140 chữ U vào ) 3 120 những năm 1980, nhưng g/m 100 vào những ( 80 năm 1990 thì 2 2 1980s đường cong 60 có độ dốc đi 40 xuống. 20 Nồng Nồng độ SO 0 1990s -10.000 0 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 GDP tính trên đầu người Hình 1-4 Đường Kuznets môi trường được ước tính vào những năm 1980 và 1990 (tt) Những mối liên hệ trên chỉ là những hình chụp nền kinh tế thế giới tại một thời điểm. Như hình 1-4 minh họa, các mối liên hệ dường như đang thay đổi theo thời gian, đôi lúc cho thấy mối quan hệ giữa phát triển và chất lượng môi trường trở nên lạc quan hơn. Nhưng kết quả EKC, trong một số trường hợp, cảnh báo rằng nếu các quốc gia vẫn tiếp tục tăng trưởng thu nhập thì có thể sẽ dẫn đến việc làm tồi tệ chất lượng môi trường. Cần chú ý rằng EKC chỉ cho thấy một chỉ số chất lượng môi trường, không phải là thước đo các ảnh hưởng kết hợp của nhiều chất ô nhiễm lên sức khỏe của hệ sinh thái. Điều này là giới hạn chủ yếu của các nghiên cứu thực tiễn cố liên kết chất lượng môi trường với các biến số kinh tế. Barry Field & Nancy Olewiler 16
  7. (e) Phát thải CO2 tính trên đầu người, năm 1996 EKC của CO2 có 30.000 dạng tăng theo hàm số mũ vào 2 2 những năm 1980, 20.000 1980 nhưng dữ liệu ) s năm 1996 thì có hình chữ U ngược 10.000 với đỉnh cao của 1996 phát thải tính trên (kg/người đầu người xảy ra 0 ở mức thu nhập Lượngphát thải CO dưới 20.000 USD/người. -10.000 -10.000 0 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 GDP tính trên đầu người Nguồn: Ước lượng những năm 1990 do các tác giả tính toán. Số liệu những năm 1980 là của Ngân Hàng Thế Giới (1992). Báo cáo Phát Triển Thế giới 1992. Phát Triển và Môi Trường, trang 11. Hình 1-4 Đường Kuznets môi trường được ước tính vào những năm 1980 và 1990 (tt) Các ổ chứa ô nhiễm và vùng tránh ô nhiễm Khi khảo sát chất lượng môi trường ở nhiều quốc gia, một câu hỏi được đặt ra là các chỉ số môi trường có phản ánh tính chặt chẽ của chính sách môi trường ở các nước hay không và có các chính phủ có cạnh tranh trong việc lôi kéo các ngành công nghiệp “bẩn” hay “sạch” không. Một quốc gia hay một vùng trong một quốc gia có thể muốn trở thành ổ chứa ô nhiễm (pollution haven) bằng cách đưa ra những chính sách môi trường rất lỏng lẻo. Họ khuyến khích các công ty xây dựng nhà máy sản xuất thật nhiều hàng hóa và tạo nhiều việc làm cho người dân. Các nước đang phát triển thường được xem là các ổ chứa ô nhiễm, và bất kỳ quốc gia hay khu vực nào có các mục tiêu môi trường thấp đều là các ổ chứa ô nhiễm tiềm năng. Các nước khuyến khích công nghệ sản xuất sạch và mời gọi những người đánh giá cao chất lượng môi trường thì thường sử dụng các chính sách môi trường khắc khe. Các nước đó là các vùng tránh ô nhiễm (pollution halos). Thật khó để có được kết luận về vấn đề này. Các kết quả nghiên cứu thực tế không tách biệt vấn đề rạch ròi được. Nhiều nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng về các vùng chứa ô nhiễm. Nhưng nghiên cứu chi tiết từng ngành công nghiệp thì lại thấy có những trường hợp qui định môi trường đã góp phần di dời các xí nghiệp gây ô nhiễm nặng sang các vùng có qui định môi trường ít chặt chẽ hơn. Sự phức tạp ở chỗ là làm thế nào đo đạc được tính chặt chẽ của các quy định. Các nước phát triển và đang phát triển có các quy Barry Field & Nancy Olewiler 17
  8. định phát thải chặt chẽ, nhưng trong thực tế thì việc cưỡng chế thực hiện lại rất yếu. Một dữ liệu lý tưởng là phải đo được mức phát thải của các nguồn ô nhiễm, hay nhóm nguồn, trước và sau khi nó di chuyển từ vùng này sang vùng khác. Rất khó có các dữ liệu này. Vì vậy, cách mà các nhà kinh tế phải tiến hành là xác định những ngành công nghiệp “bẩn”, là những ngành công nghiệp phát thải lượng lớn chất ô nhiễm, và xem chúng tăng hay giảm như thế nào ở các quốc gia hay khu vực khác nhau trong cùng một quốc gia. Vấn đề khó khăn trong cách nghiên cứu này là có nhiều yếu tố khác ngoài các quy định môi trường cũng có thể khiến các ngành công nghiệp bẩn phải di chuyển – ví dụ như chi phí lao động, khả năng cung ứng nguyên liệu thô, cơ sở hạ tầng và đặc biệt là các giai đoạn của chu kỳ sản xuất. Điều cuối cùng chúng ta muốn nói đến là trong quá trình phát triển của bất kỳ một nền kinh tế nào, các ngành công nghiệp đều có xu hướng mở rộng rồi suy thoái ở các thời điểm khác nhau. Các ngành công nghiệp chế tạo cơ bản, thường được xem là “bẩn”, sẽ phát triển lúc đầu và suy giảm sau đó khi thu nhập của quốc gia tăng. Vì vậy các công ngành công nghiệp này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác (di chuyển không chỉ theo nghĩa đen, mà là mở rộng ở một số nước và suy thoái ở một số nước khác) tùy vào điều kiện các nước đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sản xuất, chứ không phụ thuộc vào các qui định về môi trường. Ví dụ: Điều gì đang xảy ra với mức độ ô nhiễm ở các nước đang phát triển nơi mà đầu tư trực tiếp nước ngoài đang gia tăng rất mạnh theo thời gian? Một nghiên cứu của Wheeler (2000) về mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển và mức ô nhiễm của các nước đó theo thời gian. Ba nước đang phát triển được nghiên cứu là: Trung quốc, Mexico và Brazil. Dữ liệu là các chất ô nhiễm không khí đô thị quan trọng - bụi lơ lửng (PM), có liên quan mật thiết với bệnh và tử vong có nguyên nhân tim phổi. Ba nước này ước tính chiếm khoảng 60% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở các nước đang phát triển, vì vậy nghiên cứu mối liên hệ giữa FDI và PM là trắc nghiệm đặc biệt có ý nghĩa đối với giả thiết về ổ chứa ô nhiễm. Nếu như đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho sự di chuyển các công nghệ cực kỳ ô nhiễm đến các nước đang phát triển nhanh chóng này, thì PM phải gia tăng hay ít nhất là không giảm xuống. Dữ liệu được trình bày ở hình 1-5. Mỗi biểu đồ minh họa cho từng nước. Trong mỗi trường hợp, trong khi lượng đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng (đáng kể nhất ở giai đoạn cuối), PM lại giảm. Giả thiết về ổ ô nhiễm đã không có căn cứ, ít nhất cho loại chất ô nhiễm trên và với các quốc gia trên. Các câu hỏi phát sinh trong ví dụ này (dành cho thảo luận) 1. Bạn có cho rằng các chất ô nhiễm khác cũng sẽ trong tình trạng tương tự như với bụi lơ lửng? (Liên hệ với thông tin về EKC) 2. Trong khi bụi lơ lửng giảm tại các vùng này, mức độ này so với ở các các nuớc khác thì như thế nào? – ví dụ như Hoa Kỳ và Canada? (Dữ liệu về Canada về bụi lơ lửng được cho ở chương 2.) Barry Field & Nancy Olewiler 18
  9. (a) Trung Quốc 600 40 35 500 30 400 25 300 20 (USD) 15 200 Bụi Bụi (microgram/m3) 10 100 5 ngoài nước năm tư 1998 Đầu 0 0 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Năm (b) MEXICO CITY 60 14 50 12 10 40 8 30 6 chuẩn (%) chuẩn 20 (USD) 1998 4 10 2 năm ngoài nước tư Đầu Hàm lượng bụi vượt tiêu tiêu vượt bụi lượng Hàm 0 0 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Năm (c) SAO PAULO, BRAZIL 160 12 140 10 120 8 100 80 6 60 (USD) 1988 4 40 Bụi Bụi (microgtam/m3) 2 ngoài nước năm tư Đầu 20 0 0 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Năm Cho cả ba quốc gia, ô nhiễm dưới dạng bụi lơ lửng đã giãm từ những năm 1980, trong khi đâu tư trực tiếp nước ngoài lại gia tăng. Dữ liệu này không minh chứng cho giả thíêt là các quốc gia đang phát triển này là những ổ chứa ô nhiễm. Barry Field & Nancy Olewiler 19
  10. KINH TẾ HỌC VÀ CHÍNH TRỊ Các quyết định chính sách môi trường được đưa ra theo các quy trình chính trị, nơi mà ít nhất là trong các hệ thống dân chủ, người dân và các nhóm ngồi lại với nhau và đấu tranh để giành sự ảnh hưởng và quyền kiểm soát. Khi những mối quan tâm này trái ngược nhau thì các hình thức liên minh mới được thành lập và tạo ra sự thiên lệch. Các chính sách xuất hiện từ quá trình như vậy sẽ ít có can hệ gì với các phương pháp hiệu quả giải quyết các vấn đề môi trường mà ta nói đến. Nếu như vậy thì vai trò của các nhà kinh tế môi trường sẽ được đặt ở đâu? Tại sao phải mất rất nhiều thời gian và công sức cho các vấn đề hiệu quả, hiệu quả chi phí, công bằng khi mà quá trình chính trị hầu như sẽ bỏ các vấn đề này mà chỉ đi theo hướng riêng của nó? Câu trả lời là công việc của các chính trị gia chính là sự đi tìm kiếm hay dàn xếp cho sự cải tiến. Các nhà khoa học và kinh tế học có thể giúp cho quá trình chính trị bằng cách nghiên cứu càng rõ ràng và khách quan càng tốt, dù rằng chúng ta biết thế giới thực tế là đầy thỏa hiệp và quyền lực. Các nhà kinh tế có thể giúp xác định các chiến lược hiệu quả xã hội và nghiên cứu các vấn đề phân phối: các vấn đề môi trường và các chính sách môi trường ảnh hưởng như thế nào lên các nhóm khác nhau trong xã hội. Một vai trò quan trọng khác của các nhà kinh tế và khoa học là cung cấp thông tin các phương án hành động khác nhau cho người làm chính trị. Ví dụ, tác động phát thải liên tục khí gây hiệu ứng nhà kính lên sự thay đổi khí hậu là như thế nào? Người tiêu dùng sẽ phản ứng như thế nào với thuế carbon? Mặc dù chúng ta sẽ tập trung cả cuốn sách vào vấn đề các chính sách hiệu quả nhất hay các hành động ít chi phí nhất, thì chúng ta vẫn cần nhận thấy rằng trong thế giới nhận và cho của chính trị, nơi hình thành chính sách, việc chọn lựa các phương án thay thế luôn luôn là vấn đề trọng tâm. Nhưng các nhà kinh tế đang ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình hình thành các chính sách môi trường. Khi xã hội và các chính khách của chúng ta cần nắm rõ sự phức tạp và áp lực của các vấn đề môi trường thì họ dựa vào các nhà kinh tế để có lời khuyên về chính sách. Các chính sách trong quá khứ có lẽ không cải thiện môi trường. Các đề nghị kiểm soát môi trường mới kết hợp các nguyên tắc khuyến khích kinh tế đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các chính sách môi trường ở các cấp địa phương, tỉnh thành và cả quốc gia. Đó là tất cả các lý do để nghiên cứu và hiểu biết kinh tế học phân tích môi trường và chính sách. TÓM TẮT Mục đích của chương này là tạo cho bạn sự yêu thích môn học kinh tế môi trường bằng cách chỉ ra một số chủ đề chính, những phương pháp quan trọng nhất mà các nhà kinh tế đang tiến hành nghiên cứu. Chúng ta sẽ tập trung vào khía cạnh kinh tế vi mô của kinh tế môi trường – để thấy được tại sao ngoại tác tồn tại và còn mãi, và làm thế nào để thiết lập và phân tích các công cụ chính sách kinh tế để có thể cải thiện chất lượng môi trường. Chúng ta đã trình bày tóm tắt một số vấn đề kinh tế vĩ mô chính yếu nhất – đó là sự bền vững và tăng trưởng. Các công cụ phân tích nhằm nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề này cần kiến thức kinh tế học phức tạp hơn phần sẽ được sử dụng trong cuốn sách. Chúng ta hy vọng rằng bạn sẽ tiếp tục nghiên cứu kinh tế học và trở lại các vấn đề kinh tế vĩ mô này trong một khóa học khác. Khi chúng ta đi vào một số vấn đề về quan điểm và lý thuyết trong kinh tế môi trường thì rất dễ làm mất đi các nội dung mà chúng ta muốn đạt được. Chúng ta cố phát triển những nguyên lý cơ bản để có thể sử dụng chúng để chỉ ra những vấn đề thực tế như ô nhiễm không khí và nước. Mặc dù các nguyên lý này được giới thiệu một cách ngắn gọn và có vẻ đơn lẻ nhưng hãy luôn nhớ mục tiêu là đạt cho được một môi trường thiên nhiên đẹp hơn, sạch hơn và lành mạnh hơn và bền vững theo thời gian. Barry Field & Nancy Olewiler 20