Phỏng vấn Esther Duflo: Khi kinh tế học phát triển được thử thách trên thực địa
Nguyên lí chung là cố đến gần nhất có thể phương pháp thử nghiệm lâm sàng. Ta so sánh
những ai đã được điều trị - trong trường hợp này đó sẽ là một loại thuốc mới – và những ai
không được hưởng điều này. Nhằm làm được như thế, chúng tôi làm hết sức để cho các đối
tượng này là có thể so sánh lẫn nhau được. Trong cuộc sống thực tế, điều ta đối mặt khi thử so
sánh những ai được thụ hưởng một chương trình, ví dụ chương trình xây dựng trường học, với
những ai không thụ hưởng được chương trình ấy, là cách mà các chương trình được phân bổ
thường kéo theo rằng những người thụ hưởng hoàn toàn không so sánh được với những người
không được thụ hưởng chương trình. Ví dụ, ta có thể nhắm đến các trường tại những nơi mà dân
chúng mong muốn có trường nhất, trong truờng hợp này trình độ giáo dục ở đó sẽ cao hơn ; hoặc
ta có thể nhắm đến các trường ở những nơi người dân cần nhất, và trong trường hợp này trình độ
giáo dục sẽ thấp hơn.
Mục đích của thử nghiệm ngẫu nhiên là làm việc với những đối tác trên thực địa, các đối tác
này có thể là ví dụ, những tổ chức phi chính phủ, chính quyền địa phương, công ti tư nhân mong
muốn thực hiện một chương trình để tạo những điều kiện mà những ai thụ hưởng chương trình
hoàn toàn có thể so sánh được với những ai trong bước đầu chưa được thụ hưởng chương trình
ấy. Để làm điều này, trước tiên ta xác định một mẫu, ví dụ 200 làng sẽ xây dựng trường, và ta
chọn ngẫu nhiên làng nào sẽ có trường. Ví dụ, nếu một tổ chức phi chính phủ đủ sức tài trợ 100
trường, ta chọn 200 làng thay vì 100 làng mà dù sao họ cũng sẽ chọn. Sau đó, ngay từ đầu ta thu
thập dữ liệu của 200 làng, điều này cho phép so sánh, ví dụ, quá trình đi học của hai loại làng.
Thường sau đó, khi thử nghiệm chấm dứt, người ta xây dựng trường khắp nơi.
những ai đã được điều trị - trong trường hợp này đó sẽ là một loại thuốc mới – và những ai
không được hưởng điều này. Nhằm làm được như thế, chúng tôi làm hết sức để cho các đối
tượng này là có thể so sánh lẫn nhau được. Trong cuộc sống thực tế, điều ta đối mặt khi thử so
sánh những ai được thụ hưởng một chương trình, ví dụ chương trình xây dựng trường học, với
những ai không thụ hưởng được chương trình ấy, là cách mà các chương trình được phân bổ
thường kéo theo rằng những người thụ hưởng hoàn toàn không so sánh được với những người
không được thụ hưởng chương trình. Ví dụ, ta có thể nhắm đến các trường tại những nơi mà dân
chúng mong muốn có trường nhất, trong truờng hợp này trình độ giáo dục ở đó sẽ cao hơn ; hoặc
ta có thể nhắm đến các trường ở những nơi người dân cần nhất, và trong trường hợp này trình độ
giáo dục sẽ thấp hơn.
Mục đích của thử nghiệm ngẫu nhiên là làm việc với những đối tác trên thực địa, các đối tác
này có thể là ví dụ, những tổ chức phi chính phủ, chính quyền địa phương, công ti tư nhân mong
muốn thực hiện một chương trình để tạo những điều kiện mà những ai thụ hưởng chương trình
hoàn toàn có thể so sánh được với những ai trong bước đầu chưa được thụ hưởng chương trình
ấy. Để làm điều này, trước tiên ta xác định một mẫu, ví dụ 200 làng sẽ xây dựng trường, và ta
chọn ngẫu nhiên làng nào sẽ có trường. Ví dụ, nếu một tổ chức phi chính phủ đủ sức tài trợ 100
trường, ta chọn 200 làng thay vì 100 làng mà dù sao họ cũng sẽ chọn. Sau đó, ngay từ đầu ta thu
thập dữ liệu của 200 làng, điều này cho phép so sánh, ví dụ, quá trình đi học của hai loại làng.
Thường sau đó, khi thử nghiệm chấm dứt, người ta xây dựng trường khắp nơi.
Bạn đang xem tài liệu "Phỏng vấn Esther Duflo: Khi kinh tế học phát triển được thử thách trên thực địa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- phong_van_esther_duflo_khi_kinh_te_hoc_phat_trien_duoc_thu_t.pdf
Nội dung text: Phỏng vấn Esther Duflo: Khi kinh tế học phát triển được thử thách trên thực địa
- ta học được về một trăm làng ở Kenya không thể phổ quát hóa sang trăm làng bên cạnh thì không có lí do nào để làm các dự án này vì chúng chỉ có ích do bài học có tính tổng quát mà ta rút ra được, bài học này biện minh cho các chi phí và nỗ lực bỏ ra. Bao giờ vấn đề bối cảnh cũng là một vấn đề xác đáng. Như Montesquieu đã nói, không có những đạo luật tốt hay xấu mà chỉ có những luật tốt hay xấu trong bối cảnh của chúng. Điều đó cũng đúng đối với các chương trình. Nói như vậy rồi thì cũng không nên đẩy lập luận này quá xa. Ta quay trở lại với Hume, người tự hỏi rằng có thể học được điều gì có tính phổ quát chăng. Mỗi ngày ta thấy mặt trời mọc, điều này hoàn toàn không kéo theo là ngày mai mặt trời sẽ mọc nếu ta không có một lí thuyết về quan hệ giữa các tinh tú và hành tinh. Tương tự như thế đối với các chương trình. Ta không thể khái quát hóa một thử nghiệm đặc thù hay một quan sát đặc thù, dù cho đó là một thí nghiệm hay không, nếu không có một khung lí thuyết, rõ ràng hay ngầm ẩn. Tất cả chúng ta đều có khung lí thuyết này. Đây chính là điều căn bản của một chính sách kinh tế : không thể nào có một chính sách kinh tế nếu nghĩ rằng kinh nghiệm của một ai về người láng giềng của mình là hoàn toàn không xác đáng. Đơn giản là không thể nghĩ được là không có bất kì khả năng học được điều gì có tính tổng quát hơn từ một thử nghiệm đặc biệt. Nói như vậy rồi thì bối cảnh vẫn là quan trọng nhưng cũng lại là một lí thuyết giải thích tác động của chương trình này mới cho phép chúng ta phân định điều gì sẽ thành công nơi này hay nới khác. Ví dụ, có những lí thuyết vô cùng đơn giản là những lí thuyết sinh lí. Michael Kremer đã đánh giá tác động của việc tẩy kí sinh trùng : các kí sinh trong ruột làm cho trẻ em bị bệnh, do đó nếu cho trẻ em uống thuốc thì chúng ít bị bệnh và do đó có thể đến trường nhiều hơn. Ta có thể nghĩ rằng hiện tượng này là phổ quát. Trong lúc đối với một số hiện tượng khác, chẳng hạn như việc vận động dân chúng để giám sát thầy cô hay y tá, thì ta có thể nghĩ rằng năng lực tổ chức của đám đông phụ thuộc vào bối cảnh dân chủ. Chính điều này cho phép tiên đoán là, ví dụ, cái gì sẽ thành công ở Kenya hơn là ở Ấn Độ. Giáo sư đặt vấn đề khái quát hóa và bối cảnh trước, trong hay sau các cuộc thử nghiệm ? Có một quá trình phản hồi qua lại, chúng tôi rất muốn đặt vấn đề càng sớm càng tốt. Nói thật, điều thường xảy ra là trước các cuộc thử nghiệm, chúng tôi tiên đoán tùy theo lí thuyết sẵn có liên quan đến tác động của chương trình trên cả một chuỗi luận chứng. Và chúng tôi đánh giá dựa trên tất cả những biến trung gian được tiên đoán. Lấy trường hợp tác động của phụ nữ cầm quyền trên các quyết định chính trị làm ví dụ, tôi đã trước tiên nghiên cứu vấn đề này ở Tây Bengale. Ý tưởng ban đầu của tôi là khá đơn giản : một phụ nữ cầm quyền sẽ có những quyết định chính trị giống với, và thể hiện tốt sở thích của phụ nữ hơn là sở thích của nam giới. Do đó 10
- trước hết chúng tôi đo sở thích chính trị của nam giới và nữ giới bằng cách quan sát những đơn kiện của hai giới. Tiếp đó chúng tôi nhìn các kết quả, điều gì được các chính khách nam và nữ quyết định. Trong trường hợp của bang Bengale, ta thấy là phụ nữ nhấn mạnh nhiều đến các vấn đề nước sạch và đường sá hơn là đến giáo dục. Nên mới có tiên đoán rằng kết quả là sẽ có nhiều nước và đường sá và ít trường học. Sau đó, chúng tôi tìm cách lặp lại thử nghiệm ở nơi khác để kiểm tra rằng điều này không chỉ có giá trị ở Bengale, một bang mà phụ nữ có nhiều quyền lực. Trong một bang khác, bang Rajasthan, một bang với nhiều bé gái bị giết, v.v. tiên đoán cũng như trên : phụ nữ sẽ làm nhiều hơn theo chiều hướng những gì phụ nữ mong muốn. Và ở bang này chúng tôi cũng đo những gì họ muốn : họ vẫn muốn có nước sạch, giống như phụ nữ ở Bengale, nhưng lại hoàn toàn không quan tâm đến đường sá. Do đó bây giờ chúng tôi có một tiên đoán khác : ở những nơi đàn ông nắm quyền sẽ có nhiều đường sá và ít nước. Như vậy bây giờ chúng tôi có những kết quả khác nhau nhưng lại hiểu được vì sao, đó là vì chúng tôi có được biến trung gian là biến sở thích. Bởi thế tiên đoán không phải là : nếu bầu cho phụ nữ sẽ có nhiều nước sạch hơn nhưng là nếu bầu cho phụ nữ thì sẽ có những sở thích tương ứng tốt hơn với những gì phụ nữ muốn. Đây là một tiên đoán ở cấp độ tổng quát hơn, có thể đo đạc được. Trong một thời gian dài, các nhà kinh tế học phát triển quan tâm đến những nhân tố quyết định có tính vĩ mô – để có thể phát triển phải giàu có, muốn giàu có phải tăng trưởng – và người ta tìm cách xác định đâu là những nhân tố quyết định tăng trưởng. Cách tiếp cận thực nghiệm, theo định nghĩa, được tiến hành ở cấp độ hành vi các tác nhân, các cá nhân. Bằng cách nào nghiên cứu vi mô ứng dụng này vào kinh tế học phát triển được nối khớp với một cách tiếp cận có tính vĩ mô hơn ? Có hai cách trả lời. Một cách là nói rằng phải chuyển động, phải thử nghiệm ở cấp độ kinh tế vĩ mô, không phải ở cấp các quốc gia mà đôi lúc ở cấp các thị trường. Khó khăn là một thử nghiệm ở cấp kinh tế vi mô cho chúng ta những tham số, có thể là những tham số về độ co dãn*, về năng suất, về vốn, v.v. nhưng hiển nhiên là chúng ở thế cân bằng bộ phận . Nếu có một hiệu ứng cân bằng chung thì, theo định nghĩa, ta không thể nhận ra khi ta tiến hành một thử nghiệm * Xem mục “Độ co dãn” trong Từ điển phân tích kinh tế của Bernard Guerrien, NXB Tri thức, Hà Nội, 2007 (ND). Xem mục “Cân bằng bộ phận” trong Từ điển phân tích kinh tế của Bernard Guerrien, NXB Tri thức, Hà Nội, 2007 (ND). Xem mục “Cân bằng chung” trong Từ điển phân tích kinh tế của Bernard Guerrien, NXB Tri thức, Hà Nội, 2007 (ND). 11
- trong nội bộ một thị trường. Một ví dụ là việc tư hữu hóa trường học. Trong nhiều nước, kể cả ở Hoa Kì và ở cả nhiều nước nghèo, vấn đề đặt ra là nên chăng Nhà nước chỉ cần tài trợ cho giáo dục mà để cho thị trường xây dựng trường học, và Nhà nước trao cho người dân các phiếu cho phép họ tài trợ cho giáo dục bản thân. Như thế câu hỏi đầu tiên có thể đặt ra có tính cân bằng bộ phận : nếu chỉ có hai chúng ta, bạn được một phiếu và tôi không được phiếu nào ; người ta so sánh chúng ta và nhận thấy là hiển nhiên bạn có nhiều cơ may theo học một trường tư hơn và kết quả của bạn tốt hơn. Do đó ta có một cân bằng bộ phận. Ngày nay ta có một thử nghiệm được tiến hành ví dụ ở Colombia, một quốc gia mà trường tư tốt hơn trường công, nhưng điều này không bảo chúng ta nên ngưng tài trợ trường công và phát phiếu cho mọi người, vì một khi phát phiếu cho mọi người thì ta cũng đồng thời làm thay đổi bản chất của thị trường. Trường tư sẽ thay đổi, trường công, nếu tồn tại, vì vẫn có thể còn những trường công được người ta mang phiếu đến học, cũng sẽ thay đổi. Các trường công có thể có những trẻ em tệ hại hơn hay giỏi giang hơn, có thể các trường sẽ có cạnh tranh nhiều hơn. Bởi thế ta không có tiên đoán về bước chuyển từ hệ thống hiện nay sang hệ thống phiếu. Thật ra kết quả có thể thiên về cả hai chiều hướng. Do đó điều có thể làm là nói rằng : hãy thử thử nghiệm ở cấp độ thị trường. Hiện có một thử nghiệm được tiến hành trên vấn đề phiếu giáo dục này trong bang Andrha Pradesh, nơi mà một quỹ Ấn Độ (của nhà sáng lập Wipro, một trong những công ti tin học lớn) phát phiếu cho dân chúng ở cấp độ toàn thị trường và ta sẽ có mức độ và những hiệu ứng cân bằng chung được nắm bắt qua thử nghiệm. Đó là cách trả lời thứ nhất. Có những giới hạn cho cách trả lời trên. Có thể làm như trên cho thị trường trường giáo dục vì trẻ em không di chuyển quá xa – chân trẻ em thì ngắn nên cũng giới hạn phạm vi ! Nhưng ví dụ, đối với thị trường lao động vấn đề sẽ khác vì người ta sẽ sẵn sàng di chuyển hơn để tìm việc làm này thay vì việc làm khác. Do đó trong trường hợp này, điều quan trọng là kết hợp tốt cách tiếp cập thực nghiệm cung cấp cho ta vài tham số hữu ích với các mô hình vĩ mô. Ở đây, thật sự nghệ thuật này còn đang trong thời thơ ấu vì việc kết hợp này là một nghệ thuật hơn là một khoa học. Đó là điều mà chẳng hạn Robert Townsend thử làm cũng với những vấn đề tăng trưởng khi ông dùng những mô hình kinh tế vi mô thường là những mô hình lựa chọn nghề nghiệp (chọn trở thành doanh nhân hơn là người làm công ăn lương, v.v.), các mô hình này có những ràng buộc về thị trường tín dụng, bảo hiểm. Ông sử dụng những ước lượng kinh tế vi mô của các mô hình này, những tham số khác nhau của các mô hình này hiện chưa do những thử nghiệm cung cấp 12
- nhưng trong tương lai thì có thể, tiếp đó ông thử vận hành mô hình này và gò* nó trên một nền kinh tế, và trong trường hợp này là nền kinh tế Thái Lan. Từ mười lăm năm nay, ông đã thu thập dữ liệu mỗi năm trên cả ngàn hộ gia đình Thái Lan. Ông đã thấy các hộ này tăng trưởng – Thái Lan đã tăng trưởng nhanh chóng trong thời kì này – và thử tìm hiểu xem mô hình này, với các tham số tốt, có tái hiện lại những thành tựu của nền kinh tế vừa về mặt tăng trưởng lẫn về các mặt bất bình đẳng, lựa chọn nghề nghiêp, bất bình đẳng theo vùng, hiện tượng di dân, v.v. Điều này theo tôi là cực kì hứa hẹn. Khả năng dự báo của các mô hình này là như thế nào ? Chúng tiên đoán tương đối tốt. Ta có thể làm tốt hơn nữa nhưng với những gì ta hiện biết làm thì đã là đi khá xa hơn việc dùng một mô hình đơn giản trong đó không có các ràng buộc đó. Đã có những tiến bộ rất rõ nét. Do đó ở đây đúng hơn là vấn đề gò mô hình với các ước lượng kinh tế vi mô. Các ước lượng này càng tốt và càng chính xác thì sau này việc gò kinh tế vĩ mô càng xác đáng. Và theo tôi điều này có nhiều hứa hẹn hơn là tính các hồi quy, nghĩa là hơn việc ước lượng một mô hình thống kê từ những dữ liệu kinh tế vĩ mô quá tổng gộp*, trong lúc ta biết rằng tất cả các định lí cho phép tổng gộp đòi hỏi những điều kiện ví dụ như luồng các nguồn lực phải luôn được sử dụng một cách tốt nhất, v.v. Ta biết là các nước đang phát triển không hội đủ các điều kiện này, và do đó sẽ chẳng bõ công thử ước lượng các mô hình đó mà không tính đến các điều kiện ấy. Thẩm định chuyên gia và chính trị Cũng theo dòng suy nghĩ đó, giả định rằng tôi đứng đầu chính phủ. Tôi có những nguồn lực giới hạn và tiến hành những chính sách để phát triển đất nước tôi. Những kết quả giáo sư thu được bằng phương pháp thực nghiệm có cho phép giáo sư tư vấn tôi thực hiện những chính sách giáo dục, y tế, tiếp cận tín dụng, cải cách ruộng đất không ? Trước độ tổng quát của câu hỏi tôi xin được miễn trả lời. Đây là một câu hỏi chính trị, nghĩa là tương ứng với một lựa chọn về mặt xã hội hơn là tương ứng với những gì mà tôi, ở cương vị * Xem mục “Cân bằng chung tính toán (phương pháp)” trong Từ điển phân tích kinh tế của Bernard Guerrien, NXB Tri thức, Hà Nội, 2007 (ND). * Xem mục “Tổng gộp (vấn đề)” trong Từ điển phân tích kinh tế của Bernard Guerrien, NXB Tri thức, Hà Nội, 2007 (ND). 13
- của một nhà tư vấn kĩ thuật, có thể đóng góp. Tôi có thể trợ giúp, nếu bạn là một nhà lãnh đạo một nước đang phát triển, chỉ một khi, ví dụ, bạn đã quyết định tập trung vào lĩnh vực giáo dục. Phải chăng như vậy có nghĩa là ta không có những ý tưởng chính xác về hiệu suẩt của những kiểu chính sách khác nhau ? Chúng tôi có những ý tưởng rất chính xác, và thật sự chúng tôi làm việc trên các ý này, về hiệu suất của các chính sách khác nhau nhằm đạt đến cùng một kết quả giống nhau. Ví dụ, người ta bắt đầu biết rõ, nếu bạn muốn đưa trẻ em đến trường và để chúng học trong nhiều ngày nhất có thể ở trường, những chi phí/lợi thế của khoảng mười cách tiếp cận khác nhau. Do đó ta có thể lựa chọn trong số các cách tiếp cận này. Cũng giống như thế đối với y tế : nếu bạn muốn tiêm chủng trẻ em, và ngay cả cải thiện việc tiếp cận những dịch vụ chăm sóc dự phòng, vốn rất yếu trong các nước đang phát triển, người ta có rất nhiều ý, nhiều cách tiếp cận ; có thể tài trợ, có những chính sách thông tin, có thể xây thêm những trạm y tế sơ đẳng. Ta hoàn toàn có khả năng so sánh tất cả các cách tiếp cận này. Và càng làm nhiều dự án càng có nhiều điều để có thể so sánh. Chúng tôi cũng tính những tỉ số chi phí/lợi thế, nghĩa là đôla trên đôla, vì chúng tôi có thể nói là một đứa trẻ được học hành nhiều hơn sẽ có thu nhập cao hơn với thời gian, do đó nếu tôi đầu tư bao nhiêu vào sách giáo khoa thì cuối cùng thu nhập sẽ tăng thêm được bao nhiêu. Nhưng theo tôi những lợi thế này là tế nhị hơn trong chừng mực mà có những lợi thế khác hơn là đồng đôla cho mỗi chính sách. Ví dụ, có thể xem giáo dục như một điều tốt tự thân, tương tự như vậy đối với sức khỏe : điều này tương ứng với một lựa chọn xã hội hơn khi nói rằng đâu là giá trị tự thân được ta gán cho giáo dục hay y tế, cho việc tiếp cận tín dụng hay bảo hiểm. Bởi thế tôi cho rằng sẽ là ảo tưởng có một giải pháp kĩ thuật cho vấn đề này. Phải có một câu trả lời chính trị cho câu hỏi này, trong nghĩa cao qúy của từ chính trị. Điều này dẫn chúng ta đến vấn đề vai trò của nhà nghiên cứu trong việc sử dụng trong thực tiễn các phương pháp mới của kinh tế học thực nghiệm. Thông qua phương pháp thực nghiệm, vai trò của nhà nghiên cứu có thay đổi hoàn toàn không ? Trong kinh tế học phát triển, ta đã chuyển từ những đánh giá và vấn đề rất đơn giản sang những vấn đề nhiều tham vọng hơn, đòi hỏi nhiều hơn và do đó đòi hỏi những thiết kế thử nghiệm tinh vi hơn. Do đó có một sự sáng tạo, ít mang tính thống kê nhưng mang tính kinh tế hơn, theo nghĩa của lí thuyết kinh tế. Và càng hiểu lí thuyết kinh tế thì càng có khả năng thiết kế 14
- những thử nghiệm lí thú, vượt lên những vấn đề bối cảnh, v.v. Cuối cùng vai trò của nhà nghiên cứu, với tư cách là nhà kinh tế không thay đổi bao nhiêu : nhà nghiên cứu không còn là một nhà thống kê thuần túy nữa, mà đúng hơn là một nhà kinh tế suy nghĩ về lí thuyết kinh tế và những hệ quả của nó. Ở mức độ thuần túy thống kê, công việc mang tính quan niệm các thử nghiệm nhiều hơn. Các thử nghiệm không phải là không có những điểm tế nhị về mặt thống kê, có cả một lĩnh vực trong sinh học gọi là sinh học thống kê chuyên xử lí việc thiết kế các thử nghiệm : làm thế nào xử lí dữ liệu, quản lí các vấn đề, các đánh giá trong việc thực hiện thiết kế thử nghiệm, v.v. Ở đây phương thức nghiên cứu thay đổi một ít so với nhà kinh tế học ngồi trong văn phòng và tìm dữ liệu để phân tích. Có nghĩa là việc tổ chức cụ thể các dự án là khác nhau. Đây là những dự án lớn với những ê-kíp lớn, từ người mới vừa xong cử nhân và sẽ phải trải một năm trên thực địa để chuẩn bị công việc, qua người đang làm post doc, đến giáo sư trẻ và giáo sư lão luyện lo tìm tiền và đặt những quan hệ đầu tiên. Mọi người đều có chỗ đứng trong mỗi dự án. Do đó có lẽ đây là những dự án giống với những dự án của các nhà sinh học, với một phần dành cho các nhà nghiên cứu. Liên quan đến vai trò của nhà nghiên cứu trong thế giới và trong cuộc tranh luận công cộng, giáo sư vừa nói là giáo sư cung cấp những giải pháp kĩ thuật. Đồng thời tất cả những dự án này được tiến hành với các chính quyền. Nhà bác học và nhà chính trị có chăng cùng một quan điểm ? Có một truyền thống trong kinh tế học từ chối có những phán định chính trị và có tham vọng mô tả thế giới như nó vốn là ; nhưng cũng có một truyền thống chuẩn tắc, mà công trình của chúng tôi thuộc về truyền thống ấy, cho rằng nhà kinh tế, trong lĩnh vực đặc biệt của mình có nhiều điều để nói về cách tốt nhất để, chẳng hạn, bổ khuyết cho một thất bại của thị trường hay tổ chức tốt hơn họat động của một dịch vụ công. Do đó, chúng tôi không tự nghiêm cấm có chủ kiến. Hoặc đó là những ý tưởng trực tiếp của chúng tôi, trường hợp này chúng tôi trực tiếp đề xuất. Hoặc chúng tôi vận dụng hiểu biết của toàn bộ lĩnh vực để đánh giá ý tưởng của những người khác. Do chúng tôi làm việc rất gần với các đối tác trên thực địa, dù cho đó là các NGO hay các chính quyền, chúng tôi không chỉ can dự với tư cách người đánh giá khi mọi việc đã xong xuôi mà ngay khi thực hiện một chương trình và thường là ngay ở thượng nguồn khi suy nghĩ thiết kế chương trình để triển khai. Bao giờ tôi cũng nói rõ là muốn được thông tin về những mục tiêu mà 15
- mình được mời hỗ trợ hoàn thành, và ở đây chính là có sự khác biệt giữa nhà bác học và nhà chính trị : nhà chính trị phải cung cấp các mục tiêu. Một khi đã xác định các mục tiêu thì phải tìm cách tốt nhất đạt các mục tiêu ấy, và trên điểm này nhà bác học mới có điều gì để nói. Đó là vai trò thứ nhất trong thế giới của nhà bác học. Vai trò thứ hai là đánh giá, một điều không dễ thực hiện dù về mặt quan niệm là không quá khó song trong thực tiễn thì hơi khó chút ít. Và đây là câu hỏi cuối cùng, một khi đã đánh giá xong công việc của giáo sư đã chấm dứt chưa hay, vì quan tâm đến tư vấn chính trị, giáo sư đảm nhận việc quảng bá các kết quả này, một hình thức vận động hành lang, sau khi đã biết là có một số việc thành công để phổ biến những cách thực hành tốt này ? Chính vì thế mà chúng tôi đã thành lập Poverty Action Lab, tiền thân của Jameel Poverty Action Lab vì mỗi nhà nghiên cứu nghĩ rằng nghề của mình là viết bài khoa học, nhưng sẽ là một sự thiệt thòi lớn khi phải luôn đánh giá mà không theo dõi việc đưa thông tin đến những người ra quyết định. Khẩu hiệu của chúng tôi là « translating research into action », biến nghiên cứu thành hành động, đảm bảo việc quảng bá các kết quả. Tôi không biết là có thể nói rằng đó là vận động hành lang hay không, nhưng vấn đề là làm cho các kết quả có mặt trong diễn ngôn chính trị. Tất nhiên chỉ riêng các kết quả không quyết định việc chọn một chính sách nhưng chúng cũng có một vai trò. Có những quỹ đặc thù cho việc này và có những nhà tài trợ đặc biệt quan tâm đến để chuyển từ một kết quả sang việc triển khai một chính sách. Chẳng hạn, điều này giải thích sự thành công của việc tẩy kí sinh trùng. Và một khi chúng tôi biết rằng việc tẩy kí sinh trùng tốn kém rất ít và vô cùng hiệu quả trên sức khỏe và giáo dục và chúng tôi đã thử bàn luận với những ai có thể cho thuốc, với các chính phủ có khả năng lên các chương trình, v.v. : kết quả là nhiều triệu trẻ em đã thụ hưởng các chương trình tẩy kí sinh trùng. Một ví dụ khác, màn ngủ. Đã có một cuộc tranh luận lớn để xem là nên phát miễn phí các màn ngủ hay không. Một nghiên cứu của Pascaline Dupas và Jessica Cohen cho thấy là nên phát không vì nhiều người sẽ nhận được màn ngủ hơn và cũng có nhiều khả năng họ sử dụng hơn ; bởi thế diện bao phủ thật sự là lớn hơn nhiều và khi diện này lớn hơn nhiều thì muỗi bay đi nơi khác. Do đó khi màn ngủ được phát không, thì điều nghịch lí là tỉ số chi phí/lợi thế cao hơn. Và kết quả này đã thuyết phục PSI, một NGO lớn về tiếp thị xã hội phân phối các màn này để phát không thay vì bán chúng. Rồi còn có những trường hợp đơn giản hơn nữa : chúng tôi đã đánh giá tác động của một 16
- chương trình xóa mù chữ cho các trẻ em đã đến trường nhưng chưa học đọc của một NGO Ấn Độ lớn là Pratham. Chúng tôi nhận thấy là chương trình này cực kì có hiệu quả và đã hỗ trợ họ làm ứng viên của quỹ Hewlett và quỹ Gates, họ đã nhận được đủ tiền để triển khai chương trình trên một phần ba nước Ấn Độ. Trường hợp này là dễ dàng do đã có sẵn người tài trợ một khi có sẵn thông tin về các kết quả. Nguồn : Florian Mayneris : « L’économie du développement à l’épreuve du développement - Entretien avec Esther Duflo » – La vie des idées, 5 mai 2009 ( ) Để tìm hiểu thêm : A. Banerjee and E. Duflo : The Experimental Approach to Development ( www.mit.edu/files/3158 ) ( ) ( ) ( ) ( ) ( ) 17
- NHỮNG TÁC PHẨM DỊCH KHÁC DC-19 Kinh tế học và Tri thức, Kreidrich A. von Hayek, Đinh Tuấn Minh dịch. DC-18 Cuộc khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng về lý thuyết kinh tế, Paul Alan Kirman, Nguyễn Quang A dịch. DC-17 Làm sao các nhà kinh tế học đã hiểu lầm đến vậy?, Paul Krugman, Nguyễn Quang A dịch DC-16 Thị trường tự do có làm xói mòn nhân cách đạo đức hay không?, Nhiều tác giả, Phạm Nguyên Hoàng dịch DC-15 Thị trường tự do có làm băng hoại các giá trị đạo đức hay không?, Nhiều tác giả, Phạm Nguyên Trường dịch 18