Làm sao các nhà kinh tế học đã hiểu lầm đến vậy?

Đáng tiếc, ảo tưởng được lãng mạn hóa và được sát trùng này về nền kinh tế đã dẫn hầu hết
các nhà kinh tế học đi bỏ qua tất cả các thứ mà có thể hỏng hóc. Họ đã ngoảnh nhìn với con mắt
mù quáng tới các hạn chế của tính duy lý của con người mà thường dẫn đến các bong bóng và
các đổ vỡ (bust); tới các vấn đề của các định chế mà hoạt động rối loạn; tới các khuyết tật của
các thị trường – đặc biệt các thị trường tài chính – mà có thể khiến cho hệ thống điều hành của
nền kinh tế chịu những đổ vỡ đột ngột, không tiên đoán được; và tới các mối nguy hiểm nảy sinh
khi các nhà điều tiết không tin vào việc điều tiết.
Khó hơn rất nhiều để nói từ đây nghề kinh tế học đi tới đâu. Nhưng cái hầu như chắc chắn
là, các nhà kinh tế học sẽ phải học để sống với sự lộn xộn. Tức là, họ sẽ phải thừa nhận tầm quan
trọng của hành vi phi duy lý (irrational) và thường không thể đoán trước, đương đầu với những
khuyết tật riêng của các thị trường và chấp nhận rằng một “lý thuyết của mọi thứ–theory of
everything” về kinh tế là còn xa. Về mặt thực tiễn, điều này có nghĩa là lời khuyên chính sách
phải thận trọng hơn – và bớt đi sự sốt sắng nhằm dỡ bỏ các công cụ bảo vệ kinh tế trong niềm tin
rằng thị trường sẽ giải quyết tất cả mọi vấn đề. 
pdf 24 trang hoanghoa 07/11/2022 2800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Làm sao các nhà kinh tế học đã hiểu lầm đến vậy?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdflam_sao_cac_nha_kinh_te_hoc_da_hieu_lam_den_vay.pdf

Nội dung text: Làm sao các nhà kinh tế học đã hiểu lầm đến vậy?

  1. 1930–Đại Khủng hoảng năm 1930,” trong đó ông đã thử lý giải tai họa lớn khi đó đang xảy đến bất thình lình đối với thế giới. Và quả thực các khả năng về của cải của thế giới đã bị uổng phí trong thời gian dài; đã cần đến Chiến tranh Thế giới II để làm cho Đại Suy Thoái kết thúc dứt khoát. Vì sao chẩn đoán của Keynes về Đại Suy Thoái như một “tình trạng rối ren khổng lồ” từ đầu đã thuyết phục đến vậy? Và vì sao kinh tế học, vào khoảng 1975, đã phân thành hai phe đối chọi nhau về giá trị của quan điểm của Keynes? Tôi thích lý giải bản chất của kinh tế học Keynesian bằng một câu chuyện có thật mà cũng được dùng như một ngụ ngôn, một phiên bản quy mô nhỏ của các tình trạng lộn xộn có thể gây đau đớn cho toàn bộ các nền kinh tế. Hãy xét những công việc vất vả của Hợp Tác Xã (HTX) Trông trẻ Đồi Capitol. HTX này, mà các vấn đề của nó đã được kể chi tiết trong một bài báo năm 1977 trong The Journal of Money, Credit and Banking, đã là một hội của khoảng 150 cặp vợ chồng trẻ những người đã đồng ý giúp lẫn nhau bằng cách trông trẻ cho nhau khi cha mẹ muốn có một đêm đi chơi. Để bảo đảm rằng mỗi cặp thực hiện phần công bằng trong việc giữ trẻ, HTX đã đưa ra một dạng chứng khoán tạm thời (scrip): các phiếu (coupon) làm bằng miếng giấy dày, mỗi miếng cho quyền người nắm giữ được hưởng nửa giờ gửi trẻ. Ban đầu các xã viên nhận được 20 phiếu khi tham gia và được yêu cầu trả lại cùng số phiếu khi ra khỏi nhóm. Đáng tiếc, hóa ra là các xã viên HTX, xét trung bình, đã muốn giữ một lượng dự trữ nhiều hơn 20 phiếu, có lẽ, cho trường hợp họ muốn đi chơi nhiều lần kế tiếp nhau. Kết quả là, tương đối ít người đã muốn tiêu scrip của mình và đi chơi, trong khi nhiều người muốn trông trẻ, như thế họ có thể thêm vào khoản dành dụm (phiếu) của mình. Nhưng vì các cơ hội trông trẻ tăng lên chỉ khi ai đó đi chơi ban đêm, điều này có nghĩa rằng việc làm trông trẻ đã là khó để kiếm, mà 10
  2. điều đó làm cho các xã viên HTX càng miễn cưỡng hơn để đi chơi, làm cho việc làm trông trẻ càng hiếm hơn. . . . Nói tóm lại, HTX rơi vào suy thoái. O.K., bạn nghĩ gì về câu chuyện này? Đừng gạt bỏ nó như chuyện ngớ ngẩn và tầm thường: các nhà kinh tế học đã từng dùng các thí dụ quy mô nhỏ để soi rọi các vấn đề lớn kể từ Adam Smith đã thấy gốc rễ của tiến bộ kinh tế trong một nhà máy sản xuất kim, và họ là đúng để làm vậy. Vấn đề là, liệu thí dụ cá biệt này, trong đó một cuộc suy thoái là một vấn đề về không đủ cầu – không có đủ cầu cho việc trông trẻ để tạo việc làm cho tất cả những người muốn có một việc làm – có thâu tóm được bản chất của cái xảy ra trong một cuộc suy thoái hay không. Bốn mươi năm trước hầu hết các nhà kinh tế học có thể đã đồng ý với diễn giải này. Nhưng từ đó kinh tế học vĩ mô đã phân thành hai phái lớn: các nhà kinh tế học “nước mặn” (chủ yếu ở các đại học Hoa Kỳ miền ven biển), những người có cách nhìn ít nhiều Keynesian về các cuộc suy thoái tất cả có nghĩa là gì; và các nhà kinh tế học “nước ngọt” (chủ yếu ở các trường trong lục địa), những người coi cách nhìn đó là vô nghĩa. Các nhà kinh tế học nước ngọt, về bản chất, là những người thuần túy tân cổ điển. Họ tin rằng tất cả phân tích kinh tế đáng giá đều bắt đầu từ tiền đề rằng người dân là duy lý và các thị trường vận hành có kết quả, một giả thiết bị vi phạm bởi câu chuyện về HTX trông trẻ. Như họ thấy, một sự thiếu chung về cầu đủ là không thể có, bởi vì giá luôn luôn thay đổi để làm khớp cung với cầu. Nếu người ta muốn nhiều phiếu giữ trẻ hơn, giá của các phiếu đó sẽ tăng, sao cho chúng đáng, chẳng hạn, 40 phút trông trẻ hơn là một nửa giờ – hay, một cách tương đương, chi phí của một giờ trông trẻ sẽ giảm từ 2 phiếu xuống 1,5 phiếu. Và việc đó sẽ giải quyết vấn đề: sức mua của các phiếu trong lưu thông sẽ tăng lên, sao cho người ta sẽ không cảm thấy cần tích trữ nhiều hơn, và sẽ không có suy thoái nào cả. 11
  3. Nhưng chẳng phải các cuộc suy thoái nhìn giống các thời kỳ mà trong đó đúng là không có đủ cầu để thuê tất cả những ai muốn làm việc hay sao? Bề ngoài có thể đánh lừa, các nhà kinh tế học nước ngọt nói. Kinh tế học lành mạnh, theo cách nhìn của họ, nói rằng những thất bại tổng thể của cầu không thể xảy ra – và điều đó có nghĩa rằng chúng không xảy ra. Kinh tế học Keynesian “đã chứng tỏ là sai,” Cochrane, ở Đại học Chicago, nói. Thế nhưng các cuộc suy thoái có xảy ra. Vì sao? Trong các năm 1970 nhà kinh tế học vĩ mô hàng đầu, người được giải Nobel, Robert Lucas, đã cho rằng sự nhầm lẫn tạm thời đã gây ra các cuộc suy thoái: những người lao động và các công ty đã gặp rắc rối khi phân biệt những thay đổi tổng thể về mức giá do lạm phát hay giảm phát với những thay đổi trong tình hình kinh doanh cá biệt riêng của họ. Và Lucas đã cảnh báo rằng bất cứ mưu toan nào để chống chu kỳ kinh doanh sẽ là phản tác dụng: các chính sách can thiệp tích cực, ông biện luận, sẽ chỉ làm tăng thêm sự lẫn lộn. Tuy nhiên, vào các năm 1980, ngay cả sự chấp nhận bị hạn chế nghiêm khắc này về ý tưởng rằng suy thoái là xấu đã bị gạt bỏ bởi nhiều nhà kinh tế học nước ngọt. Thay vào đó, các lãnh tụ mới của phong trào, đặc biệt là Edward Prescott, người khi đó ở Đại học Minnesota (bạn có thể thấy tên hay bí danh nước ngọt đến từ đâu), đã cho rằng những thăng giáng giá và những thay đổi về cầu thực sự chẳng liên quan gì với chu kỳ kinh doanh cả. Đúng hơn, chu kỳ kinh doanh phản ánh những thăng giáng về tiến bộ công nghệ, mà được khuếch đại bởi phản ứng duy lý của những người lao động, những người tự nguyện làm việc nhiều hơn khi môi trường thuận lợi và ít hơn khi môi trường bất lợi. Thất nghiệp là một quyết định có chủ ý bởi những người lao động để có thời gian nghỉ. Nói trắng ra, lý thuyết này nghe có vẻ ngu xuẩn – Đại Suy Thoái đã có thực sự là Kỳ Nghỉ Tuyệt vời không? Và thành thực mà nói, tôi nghĩ nó thật sự ngớ ngẩn. Nhưng tiền đề cơ bản của lý thuyết “chu kỳ kinh doanh thực” của Prescott được nhúng vào các mô hình toán học được xây dựng một cách tài tình, mà được ánh xạ lên số liệu thực tế sử dụng các kỹ thuật thống kê tinh vi, và lý thuyết đã chế ngự việc dạy kinh tế học vĩ mô ở nhiều bộ môn đại học. Năm 2004, phản ánh ảnh hưởng của lý thuyết, Prescott đã được giải Nobel cùng chia với Finn Kydland ở Đại học Carnegie Mellon. 12
  4. Trong lúc đó, các nhà kinh tế học nước mặn đã lẩn tránh. Nơi các nhà kinh tế học nước ngọt đã là những người theo chủ nghĩa thuần túy, các nhà kinh tế học nước mặn đã là những người thực dụng. Trong khi các nhà kinh tế học như N. Gregory Mankiw ở Harvard, Olivier Blanchard ở M.I.T. và David Romer ở Đại học California, Berkeley, đã thừa nhận rằng đã là khó để dung hòa cách nhìn bên–cầu Keynesian về các cuộc suy thoái với lý thuyết tân cổ điển, họ đã thấy bằng chứng rằng các cuộc khủng hoảng, thực ra, là do cầu-gây ra, là quá thuyết phục để gạt bỏ. Cho nên họ đã sẵn sàng đi trệch khỏi giả thiết về các thị trường hoàn hảo hay tính duy lý hoàn hảo, hay cả hai, đưa thêm đủ các khuyết tật để thích nghi ít nhiều cách nhìn Keynesian về các cuộc suy thoái. Và theo quan điểm nước mặn, chính sách tích cực để chống suy thoái vẫn đáng mong mỏi. Nhưng các nhà kinh tế học tự–mô tả mình là Tân Keynesian đã không miễn nhiễm đối với sức quyến rũ của các cá nhân duy lý và các thị trường hoàn hảo. Họ đã thử giữ những sự lệch hướng khỏi thuyết chính thống tân cổ điển càng hạn chế càng tốt. Điều này đã có nghĩa rằng không có chỗ trong các mô hình thịnh hành cho các thứ như các bong bóng và sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Sự thực rằng những thứ như vậy tiếp tục xảy ra trong thế giới thực – đã có một khủng hoảng tài chính và kinh tế vĩ mô khủng khiếp ở phần lớn Châu Á trong các năm 1997-8 và một sự sụt giảm ở mức suy thoái ở Argentina năm 2002 – đã không được phản ảnh trong dòng chủ lưu của tư duy Tân Keynesian. Ngay có đúng như thế, bạn có thể nghĩ rằng các thế giới quan khác nhau của các nhà kinh tế học nước ngọt và nước mặn đã phải dẫn họ đến liên tục bất hòa, đối đầu nhau về chính sách kinh tế. Hơi ngạc nhiên, tuy vậy, giữa khoảng 1985 và 2007 các cuộc tranh cãi giữa các nhà kinh tế học nước ngọt và nước mặn đã chủ yếu về lý thuyết, chứ không về hành động. Lý do, tôi tin, là những người Tân Keynesian, không giống các Keynesian gốc, đã không nghĩ chính sách tài khóa – những thay đổi trong chi tiêu chính phủ hay các loại thuế – là cần đến để chống suy thoái. Họ đã tin rằng chính sách tiền tệ, do các nhà kỹ trị ở Fed thực hiện, đã có thể cung cấp bất cứ phương thuốc điều trị nào mà nền kinh tế cần. Tại lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của Milton Friedman, Ben Bernanke, trước đó ít nhiều là một giáo sư Tân Keynesian tại Princeton, và khi đó đã là một thành viên của ban quản trị của Fed, đã tuyên bố về Đại Suy thoái: “Ngài đúng. Chúng tôi đã gây ra. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Nhưng nhờ Ngài, nó sẽ không xảy ra lần nữa.” Thông điệp rõ ràng đã là, tất cả cái mà bạn cần để tránh các cuộc suy thoái là một Fed thông minh hơn. 13
  5. Và chừng nào mà chính sách kinh tế vĩ mô được để vào tay của nhạc trưởng đại tài Greenspan, mà không có các chương trình kích thích kiểu Keynesian, thì các nhà kinh tế học nước ngọt đã thấy ít để phàn nàn. (Họ đã không tin rằng chính sách tiền tệ mang lại bất cứ điều gì tốt, nhưng họ cũng chẳng tin nó gây hại.) Cần đến một cuộc khủng hoảng để bộc lộ ra đã có ít nền tảng chung đến thế nào và ngay cả kinh tế học Tân Keynesian đã trở thành (lạc quan tếu) Panglossian đến thế nào. Không ai đã có thể tiên đoán Trong các cuộc thảo luận kinh tế học buồn bã gần đây, một câu kết thúc khôi hài đa năng đã trở thành “không ai đã có thể tiên đoán ” Đó là cái bạn nói liên quan đến các tai họa mà đã có thể tiên đoán được, phải đã được tiên đoán và thực sự đã được tiên đoán bởi vài nhà kinh tế học những người đã bị chế giễu vì công sức vất vả của họ. Hãy xét, thí dụ, sự tăng vọt và sự sụt lao dốc của giá nhà ở. Một số nhà kinh tế học, nhất là Robert Shiller, đã nhận diện ra bong bóng và đã cảnh báo về các hậu quả đau đớn nếu nó nổ. Thế nhưng các nhà hoạch định chính sách chủ chốt đã không thấy cái hiển nhiên. Năm 2004, Alan Greenspan đã gạt bỏ thảo luận về một bong bóng nhà ở: “một sự méo mó giá nghiêm trọng ở tầm quốc gia,” ông đã tuyên bố, là “hầu như không có thể xảy ra.” Sự tăng giá nhà, Ben Bernanke nói năm 2005, “phần lớn phản ánh nền tảng kinh tế vững mạnh.” Làm sao họ đã bỏ qua bong bóng? Công bằng mà nói, các lãi suất đã thường thấp, có lẽ giải thích phần giá tăng. Có thể là, Greenspan và Bernanke cũng đã muốn ca ngợi thành công của Fed trong việc kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái năm 2001; việc thừa nhận rằng phần lớn của thành công đó đã dựa vào việc tạo ra một bong bóng khổng lồ sẽ như là việc làm cụt hứng sự hân hoan. Nhưng đã có cái gì khác còn tiếp diễn: một niềm tin chung rằng các bong bóng không xảy ra. Điều ngạc nhiên, khi ta đọc lại sự bảo đảm của Greenspan, là, họ đã không dựa vào bằng 14
  6. chứng – họ đã dựa vào khẳng định tiên nghiệm rằng đơn giản không thể có bong bóng về nhà ở. Và các lý thuyết gia tài chính đã thậm chí cứng rắn hơn về điểm này. Trong một phỏng vấn năm 2007, Eugene Fama, cha đẻ của giả thuyết thị trường–hiệu quả, đã tuyên bố rằng “từ ‘bong bóng’ làm tôi điên tiết,” và tiếp tục để giải thích vì sao chúng ta có thể tin cậy thị trường nhà ở: “Các thị trường nhà ở là ít thanh khoản hơn, nhưng người dân rất cẩn trọng khi mua nhà. Đó thường là khoản đầu tư lớn nhất mà họ tiến hành, nên họ ngó xung quanh rất cẩn trọng và họ so sánh các giá. Quá trình đặt giá mua là rất chi tiết.” Quả thật, những người mua nhà thường có so sánh giá một cách cẩn trọng – tức là, họ so sánh giá của món mua tiềm năng của họ với giá của các căn nhà khác. Nhưng điều này chẳng nói gì về giá tổng thể của căn nhà có được chứng minh là đúng hay không. Nó là kinh tế học ketchup, lại lần nữa: bởi vì một chai hai lít tương ớt có giá bằng gấp đôi giá của chai một lít, nên các nhà lý thuyết tài chính tuyên bố rằng giá tương ớt phải là đúng. Nói tóm lại, sự tin tưởng vào các thị trường hiệu quả đã làm đui mù nhiều nếu không phải hầu hết các nhà kinh tế học trước sự nổi lên của bong bóng tài chính lớn nhất trong lịch sử. Và lý thuyết thị trường-hiệu quả cũng đã đóng một vai trò đáng kể trong việc thổi phồng bong bóng đó trước hết. Bây giờ khi bong bóng không được chẩn đoán đã nổ, sự rủi ro thật của các tài sản được cho là an toàn đã bộc lộ và hệ thống tài chính đã chứng tỏ tính mỏng manh dễ vỡ của nó. Các hộ gia đình Mỹ đã thấy 13 ngàn tỷ $ trong của cải bốc hơi mất. Hơn sáu triệu việc làm đã mất, và tỷ lệ thất nghiệp có vẻ hướng tới mức cao nhất của nó từ 1940. Như thế kinh tế học hiện đại đưa ra hướng dẫn gì trong tình thế khó khăn hiện thời của chúng ta? Và chúng ta có tin được hướng dẫn ấy? Cãi nhau ầm ĩ về kích thích Giữa 1985 và 2007 một nền hòa bình giả tạo đã ngự trị trên lĩnh vực kinh tế học vĩ mô. Đã không có bất cứ sự hội tụ thực nào của các quan điểm giữa các phái nước mặn và nước ngọt. Nhưng đấy đã là những năm của sự Điều độ Vĩ đại – một thời kỳ kéo dài mà trong đó lạm phát đã dịu bớt và các cuộc suy thoái đã tương đối nhẹ. Các nhà kinh tế học nước mặn đã tin rằng Cục 15
  7. Dự trữ Liên bang đã kiểm soát được mọi thứ. Các nhà kinh tế học nước ngọt đã không nghĩ các hành động của Fed thực sự có ích, nhưng họ đã sẵn lòng để cho các việc ấy nói dối. Nhưng khủng hoảng đã chấm dứt nền hòa bình giả mạo. Một cách đột ngột, các chính sách hạn hẹp, mang tính kỹ trị mà cả hai phía đã sẵn lòng chấp nhận đã không còn đủ nữa – và nhu cầu đối với một phản ứng chính sách rộng hơn đã đưa các xung đột cũ ra công khai, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Vì sao các chính sách hạn hẹp, mang tính kỹ trị đã không đủ? Câu trả lời, bằng một từ, là zero. Trong một suy thoái bình thường, Fed phản ứng bằng việc mua các trái phiếu kho bạc – các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ – từ các ngân hàng. Việc này làm cho các lãi suất của nợ chính phủ giảm xuống; các nhà đầu tư tìm kiếm suất lợi tức cao hơn chuyển sang các tài sản khác, cũng làm cho các lãi suất khác xuống; và thường các lãi suất thấp hơn này cuối cùng dẫn tới một sự phục hồi kinh tế. Fed đã xử lý cuộc suy thoái bắt đầu năm 1990 bằng đưa lãi suất ngắn hạn từ 9 phần trăm xuống 3 phần trăm. Nó đã xử lý cuộc suy thoái bắt đầu năm 2001 bằng đưa lãi suất từ 6,5 xuống 1 phần trăm. Và nó đã thử xử lý cuộc suy thoái hiện thời bằng đưa lãi suất từ 5,25 phần trăm xuống zero. Nhưng zero, hóa ra là, đã không đủ thấp để chấm dứt suy thoái. Và Fed không thể đẩy lãi suất xuống nữa, vì với các lãi suất gần–zero các nhà đầu tư đơn giản tích trữ tiền mặt hơn là đi cho vay. Như thế vào cuối 2008, với các lãi suất về cơ bản ở mức mà các nhà kinh tế học gọi là “zero cận dưới” ngay khi suy thoái tiếp tục sâu hơn, chính sách tiền tệ quy ước đã mất hết sức kéo. 16
  8. Làm sao bây giờ? Đây là lần thứ hai Mỹ đã phải đương đầu với zero cận dưới, lần trước là Đại Suy thoái. Và chính xác đã là nhận xét rằng có một cận dưới cho các lãi suất là cái đã dẫn Keynes đi chủ trương chính phủ chi tiêu nhiều hơn: khi chính sách tiền tệ là không có hiệu quả và không thể thuyết phục khu vực tư nhân chi tiêu nhiều hơn, thì khu vực công phải gánh vác nhiệm vụ của nó để chống đỡ nền kinh tế. Kích thích tài khóa là câu trả lời Keynesian cho loại tình hình kinh tế kiểu suy thoái mà chúng ta đang mắc phải. Tư duy Keynesian như vậy làm nền tảng cho các chính sách kinh tế của chính quyền Obama – và các nhà kinh tế học nước ngọt điên tiết. Trong 25 năm hay khoảng thế, họ đã chịu đựng các nỗ lực của Fed để quản lý nền kinh tế, nhưng một sự hồi sinh Keynesian rầm rộ đã là cái gì đó hoàn toàn khác. Năm 1980, Lucas ở Đại học Chicago đã viết rằng kinh tế học Keynesian đã lố bịch đến mức “tại các seminar nghiên cứu, người ta không còn coi phát triển lý thuyết Keynesian là việc nghiêm túc nữa; cử tọa bắt đầu xì xào và cười rúc rích với nhau.” Thú nhận rằng, rốt cuộc, Keynes phần lớn đã đúng, sẽ là một sự thoái bộ quá bẽ mặt. Và vì thế Cochrane của Chicago, tức điên với ý tưởng rằng sự chi tiêu của chính phủ có thể làm nhẹ bớt cuộc suy thoái gần đây nhất, đã tuyên bố: “Đó không phải là phần của cái bất cứ ai đã dạy các sinh viên cao học từ các năm 1960. Chúng [các ý tưởng Keynesian] là các chuyện cổ tích đã được chứng minh là sai. Rất an ủi trong thời kỳ căng thẳng để quay lại các chuyện cổ tích mà chúng ta đã nghe như những đứa trẻ con, nhưng nó không làm cho chúng ít sai hơn.” (Một biểu hiện về sự chia rẽ sâu sắc đến thế nào giữa các bầy nước mặn và nước ngọt đến nỗi 17
  9. Cochrane không tin rằng “bất cứ ai” dạy các ý tưởng, thực ra, được dạy ở các nơi như Princeton, M.I.T. và Harvard.) Trong lúc đó, các nhà kinh tế học nước mặn, những người đã tự an ủi mình với lòng tin rằng sự chia rẽ lớn trong kinh tế học vĩ mô đang hẹp dần, đã bị sốc để nhận ra rằng các nhà kinh tế học nước ngọt đã chẳng hề lắng nghe. Các nhà kinh tế học nước ngọt, những người đả kích chống lại gói kích thích, đã không có vẻ như các học giả, những người đã cân nhắc các lý lẽ Keynesian và thấy chúng thiếu sót. Đúng hơn, họ có vẻ giống những người chẳng có ý tưởng nào về kinh tế học Keynesian là gì, những người đã phục hồi lại các ý tưởng sai lầm trước–1930 trong niềm tin rằng họ đã nói cái gì đó mới và sâu sắc. Và đã không chỉ có Keynes mà các ý tưởng của ông có vẻ đã bị lãng quên. Như Brad DeLong của Đại học California, Berkeley, đã chỉ ra trong những lời than vãn của ông về “sự sụp đổ trí tuệ” của Trường phái Chicago, lập trường hiện thời của trường phái cũng chẳng khác gì sự bác bỏ hàng loạt tư tưởng của cả Milton Friedman nữa. Friedman đã tin rằng chính sách của Fed hơn là những thay đổi về chi tiêu chính phủ phải được dùng để ổn định hóa nền kinh tế, nhưng ông đã chẳng bao giờ khẳng định rằng một sự gia tăng chi tiêu của chính phủ, trong bất cứ tình huống nào, không thể làm tăng công ăn việc làm. Thực ra, đọc lại công trình của Friedman năm 1970 tổng kết các ý tưởng của ông, “A Theoretical Framework for Monetary Analysis–Một Khung khổ Lý thuyết cho Phân tích Tiền tệ,” cái nổi bật là nó có vẻ Keynesian đến thế nào. Và Friedman chắc chắn đã chẳng bao giờ đưa ra ý tưởng rằng thất nghiệp hàng loạt biểu lộ một sự giảm bớt tự nguyện về sự cố gắng làm việc hay ý tưởng rằng các cuộc suy thoái là thực sự tốt cho nền kinh tế. Thế mà thế hệ hiện thời của các nhà kinh tế học nước ngọt đã đưa ra cả hai lý lẽ đó. Theo cách đó Casey Mulligan của Chicago gợi ý rằng thất nghiệp cao như vậy bởi vì những người lao động chọn không làm việc: “Những người làm công đối mặt với các khuyến khích tài chính mà động viên họ không làm việc công ăn việc làm bị giảm được giải thích nhiều hơn bởi sự giảm bớt về cung lao động (sự sẵn lòng của người dân để làm việc) và ít hơn bởi cầu về lao động (số người lao động mà những người sử dụng lao động cần thuê).” Mulligan đã gợi ý, đặc biệt, rằng những người lao động chọn để vẫn là thất nghiệp bởi vì điều đó cải thiện cơ hội của họ để nhận được sự giảm nhẹ thế chấp. Và Cochrane tuyên bố rằng thất nghiệp cao là thực sự tốt: “Chúng ta phải có một cuộc suy thoái. Những người suốt đời đóng đinh ở Nevada cần cái gì đó khác để làm.” 18
  10. Cá nhân tôi nghĩ điều này là điên rồ. Vì sao cần đến thất nghiệp hàng loạt trên khắp quốc gia để khiến các thợ mộc chuyển khỏi Nevada? Có bất cứ ai có thể nghiêm túc cho rằng chúng ta đã mất 6,7 triệu việc làm bởi vì có ít người Mỹ hơn muốn làm việc? Nhưng đã không thể tránh khỏi là, các nhà kinh tế học nước ngọt sẽ thấy bản thân họ bị mắc bẫy trong cái ngõ cụt này: nếu bạn bắt đầu từ giả thiết rằng người dân là duy lý một cách hoàn hảo và các thị trường là hiệu quả một cách hoàn hảo, bạn phải kết luận rằng thất nghiệp là tự nguyện và các cuộc suy thoái là đáng mong mỏi. Thế nhưng nếu khủng hoảng đã đẩy các nhà kinh tế học nước ngọt vào sự vô lý, nó cũng gây ra nhiều sự tự vấn lương tâm giữa các nhà kinh tế học nước mặn. Khung khổ của họ, không giống khung khổ của Trường phái Chicago, cả hai cho phép khả năng của thất nghiệp không tự nguyện và coi nó là chuyện xấu. Nhưng các mô hình Tân Keynesian, mà đã trở nên thống trị việc dạy và nghiên cứu, lại giả thiết rằng người dân là duy lý hoàn hảo và các thị trường tài chính là có hiệu quả một cách hoàn hảo. Để có được bất cứ cái gì giống sự suy thoái hiện thời trong mô hình của họ, các nhà Tân Keynesian buộc phải đưa vào loại nào đó của nhân tố vớ vẩn mà vì các lý do không định rõ tạm thời nén chi tiêu tư nhân xuống. (Tôi đã làm chính xác việc đó trong một số công trình của riêng tôi.) Và nếu sự phân tích, về chúng ta đang ở đâu bây giờ, dựa vào nhân tố vớ vẩn này, thì chúng ta có thể có bao nhiêu sự tin cậy vào các tiên đoán của mô hình về chúng ta sẽ đi tới đâu? Nói tóm lại, trạng thái [kinh tế học] vĩ mô là không tốt. Thế thì từ đây nghề sẽ đi đến đâu? Những thiếu sót và ma sát Kinh tế học, như một lĩnh vực, đã gặp rắc rối bởi vì các nhà kinh tế học đã bị quyến rũ bởi tầm nhìn về một hệ thống thị trường hoàn hảo, không có ma sát. Nếu nghề [kinh tế học] muốn chuộc lại mình, nó sẽ phải giải hòa chính nó với một tầm nhìn ít quyến rũ hơn – tầm nhìn về một nền kinh tế thị trường có nhiều đức hạnh nhưng cũng mắc nhiều thiếu sót và ma sát. Tin tốt lành là, chúng ta không phải bắt đầu từ bàn tay trắng. Ngay cả trong thời hoàng kim của kinh tế học thị trường hoàn hảo, đã có nhiều công trình được tiến hành theo cách trong đó nền kinh tế thực tế lệch khỏi lý tưởng lý thuyết. Cái có lẽ sẽ diễn ra bây giờ – thực ra, đang xảy ra rồi – là kinh tế học flaws-and-frictions (thiếu sót và ma sát) sẽ chuyển từ ngoại vi của phân tích kinh tế vào trung tâm của nó. 19