Kinh tế học và triết học của Chủ nghĩa xã hội
Nguồn gốc của cuộc tranh luận về ‘tính toán’ xã hội chủ nghĩa*1
Có một thực tế lạ lùng trong lịch sử tư tưởng chính trị và xã hội của thế kỷ này, đó là
hai hệ thống kiến giải xã hội mang tính lý thuyết và duy lý, thống trị mạnh mẽ nhất, một bên
là những người theo chủ nghĩa cá nhân tự do cổ điển và bên kia là những người theo chủ
nghĩa tập thể, lại rất hiếm khi đối đầu nhau một cách trực tiếp trong lãnh địa của những phép
tắc khảo cứu khoa học. Bất chấp dung lượng khổng lồ của chúng, những bài viết trong các
ngành triết học xã hội này chẳng mấy khi được viết ra theo cách cho phép đi tới những giải
pháp rốt ráo cho hàng loạt vấn đề chúng đặt ra: thay vào đó, chúng xuất hiện như những công
trình kiến trúc vĩ đại, với nhiều tầng bậc mỹ thuật khác nhau, đứng kế bên nhau chứ không
phải trên cùng một mảnh đất chung. Như những bà nội trợ xứ Glaswegia*2 gân cổ lên cãi
nhau từ hai bên hè phố, người theo chủ nghĩa cá nhân và người theo chủ nghĩa tập thể dường
như luôn luôn tranh luận từ hai hệ tiền đề khác nhau. Như người được giải Nobel về Khoa
học Kinh tế George Stigler*3 từng nói, những cuộc tranh luận giữa những người xã hội chủ
nghĩa’ và những người ‘tư bản chủ nghĩa’ là không ăn khớp với nhau (‘unjoined’).(1) Tuy
nhiên, sự chệch choạc này, theo Stigler, hoàn toàn bắt nguồn từ sự thất bại của cả hai phe khi
đánh giá các kết quả thực tiễn của những lập luận tương ứng của họ. Theo một lối ‘thực
chứng’ điển hình, ông tuyên bố rằng chỉ ‘bằng chứng thực tế’ (evidence) mới có thể giải
quyết được sự bất đồng giữa các hệ tư tưởng.
Có một thực tế lạ lùng trong lịch sử tư tưởng chính trị và xã hội của thế kỷ này, đó là
hai hệ thống kiến giải xã hội mang tính lý thuyết và duy lý, thống trị mạnh mẽ nhất, một bên
là những người theo chủ nghĩa cá nhân tự do cổ điển và bên kia là những người theo chủ
nghĩa tập thể, lại rất hiếm khi đối đầu nhau một cách trực tiếp trong lãnh địa của những phép
tắc khảo cứu khoa học. Bất chấp dung lượng khổng lồ của chúng, những bài viết trong các
ngành triết học xã hội này chẳng mấy khi được viết ra theo cách cho phép đi tới những giải
pháp rốt ráo cho hàng loạt vấn đề chúng đặt ra: thay vào đó, chúng xuất hiện như những công
trình kiến trúc vĩ đại, với nhiều tầng bậc mỹ thuật khác nhau, đứng kế bên nhau chứ không
phải trên cùng một mảnh đất chung. Như những bà nội trợ xứ Glaswegia*2 gân cổ lên cãi
nhau từ hai bên hè phố, người theo chủ nghĩa cá nhân và người theo chủ nghĩa tập thể dường
như luôn luôn tranh luận từ hai hệ tiền đề khác nhau. Như người được giải Nobel về Khoa
học Kinh tế George Stigler*3 từng nói, những cuộc tranh luận giữa những người xã hội chủ
nghĩa’ và những người ‘tư bản chủ nghĩa’ là không ăn khớp với nhau (‘unjoined’).(1) Tuy
nhiên, sự chệch choạc này, theo Stigler, hoàn toàn bắt nguồn từ sự thất bại của cả hai phe khi
đánh giá các kết quả thực tiễn của những lập luận tương ứng của họ. Theo một lối ‘thực
chứng’ điển hình, ông tuyên bố rằng chỉ ‘bằng chứng thực tế’ (evidence) mới có thể giải
quyết được sự bất đồng giữa các hệ tư tưởng.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh tế học và triết học của Chủ nghĩa xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- kinh_te_hoc_va_triet_hoc_cua_chu_nghia_xa_hoi.pdf
Nội dung text: Kinh tế học và triết học của Chủ nghĩa xã hội
- quyết định một cách tuỳ tiện bởi nhà nước. Và điều này ngăn cản không cho thông tin về cách sử dụng tối ưu các nguồn lực đến được các tác nhân kinh tế. Những thông tin này chỉ có được trong một thế giới bất biến: một thế giới trong đó chi phí sản xuất có thể được coi như không đổi theo thời gian. Chính thế giới kinh tế này được mô tả dưới hình thức đại số trong lý thuyết kinh tế chính thống về so sánh tĩnh. Nhưng điểm cốt tuỷ mà Mises muốn làm rõ là một nền kinh tế không phải là một thực thể tĩnh với những đặc điểm được tái tạo đi tái tái tạo lại theo một cơ chế máy móc. Trong một cuộc thảo luận công khai về lý thuyết chính thống, Mises nói rằng trong thế giới tĩnh, vấn đề tính toán không còn tồn tại vì lúc này “những sự kiện giống hệt nhau trong đời sống kinh tế cứ lặp đi lặp lại liên tục”(11) Trong một tác phẩm sau này, Mises viết: Một hệ thống mà con người trong đó không mắc sai lầm bao giờ, thì đó là một thế giới của những người máy câm lặng không biết suy nghĩ; đó không phải xã hội loài người, đó là một tổ kiến.(12) Ngược lại những mô tả trên, đối với Mises một nền kinh tế không tự nhân bản liên tục như một bộ gen đã được sắp đặt trước, mà chịu sự chi phối của những thay đổi thường hằng trong đó mỗi hành động của con người không phải sự lặp lại, mà mang tính suy đoán (13) (speculative). Do đó, lý thuyết kinh tế giải thích những hành động có tính toán ấy được phối hợp với nhau như thế nào theo thời gian; nó không mô tả một thế giới hài hoà tuyệt đối trong đó mọi quá trình nêu trên đã hoàn toàn chấm dứt. Tất nhiên là một thế giới như thế khiến cho sự cạnh tranh thực thụ trở thành vô dụng. Thế nhưng, khi các nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa chĩa mũi giáo tấn công Mises, họ quên mất điểm này và lại giả định rằng các “quy luật” của kinh tế học, cái mà các dự án xã hội chủ nghĩa nhất định phải tuân theo, là các quy luật diễn tả một thế giới cân bằng tĩnh. Đây đúng là cái mà Mises xem là các định lý kinh tế, ví dụ, luật cung và cầu, lợi ích cận biên giảm dần, lợi suất giảm dần của nhân tố, v.v., những cái được xem như là những chân lý tiên nghiệm, nhưng ông lại quan tâm chủ yếu đến việc hành động con người, hành động nhằm theo đuổi những mục đích có tính toán của các chủ doanh nghiệp, vận hành ra sao trong c- ương giới được thiết lập bởi những chân lý ấy. Trong bối cảnh này, những thể chế xã hội như sở hữu tư nhân, tiền tệ, và các “hãng” trở thành các khí cụ để ứng phó với sự thay đổi và tính bất trắc của một thế giới tất yếu không hoàn hảo. Đây là lúc Mises thể hiện sự chống đối của ông đối với chủ nghĩa xã hội một cách hoàn toàn rõ ràng, thực sự với một mức độ gần giống những người hay cáu kỉnh, ông chưa 10
- bao giờ làm rõ hẳn ra toàn bộ cở sở lý thuyết và triết học rốt ráo của những phê phán của ông về cái thiên kiến nghiêng về sự cân bằng của kinh tế chính trị học chính thống; cái mà về sau Hayek sẽ làm. Một lý thuyết chính thống về sự xác định giá cả thông qua thị trường ít hay nhiều bị pha trộn với một lý thuyết cực đoan (radical) về hành động con người và quá trình thị trường. Lý do của khiếm khuyết này chủ yếu mang tính lịch sử. Các giải pháp xã hội chủ nghĩa phức tạp nhất cho vấn đề tính toán, cái phụ thuộc vào kỹ thuật phân tích cân bằng, xuất hiện sau khi bài tiểu luận đầu tiên của Mises được công bố. Hơn nữa, trong tác phẩm tăng cường cho phê phán của mình, cuốn Chủ nghĩa xã hội đồ sộ và buồn tẻ, Mises đã che đi một kho báu phân tích lý thuyết tuyệt hảo do đã trùm lên đó một tấm màn dày đặc những xã hội học và tâm lý học tư biện cao độ (hiểu theo nghĩa lý thuyết). Mọi bệnh tật của thế giới hiện đại, từ sự đảo điên trong quan hệ tình dục đến chế độ bạo chúa ở Nga, dường như đều là sản phẩm của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tại điểm này, chủ nghĩa xã hội bị tố cáo là “ không gì (14) khác ngoài sự suy lý phô trương của những cơn oán giận nhỏ nhen”. Không nghi ngờ gì nữa, chính cái phong cách hiếu chiến quá đáng này đã làm suy giảm tác động to lớn của những lập luận của Mises. Đơn giản là trong suốt nhiều năm trời, chúng không được xem xét tới một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, vẫn có nhiều điều đáng khai thác trong chiều sâu thẳm của tác phẩm Chủ nghĩa xã hội nhằm tìm ra kho báu chứa đựng những điều thông thái. Sử dụng các thuật ngữ kinh tế, Mises nhấn mạnh rằng chức năng của tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship), tức là việc phối hợp các hoạt động kinh tế thông qua một quá trình kinh tế cạnh tranh, nhất định phải được thực hiện trong một xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều này là kết quả trực tiếp từ những nhận định của Mises rằng tri thức kinh tế không phải là gì bất biến với công nghệ cho trước. Nhưng tất nhiên, cấu trúc chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa ngăn cản việc hình thành một giai cấp các nhà doanh nghiệp chuyên nghiệp.(15) Bởi vì giai cấp này, luôn năng động về mặt kinh tế, nhất định phải mạo hiểm với tài sản của chính họ, nên sự vắng mặt quyền sở hữu tư nhân về phương tiện sản xuất làm xuất hiện vấn đề động lực khuyến khích làm việc cực kỳ nan giải cho một xã hội bị kế hoạch hoá. Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, các lý thuyết gia “duy lý” của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhận thức được rất rõ vấn đề tinh thần doanh nghiệp và động lực làm việc. Xa hơn nữa, Mises đặc biết nhấn mạnh rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện hành không thể đạt được một mức năng suất nào đó, chính xác là vì vấn đề tính toán đã được giải quyết từng phần bởi những nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xung quanh, những nền kinh tế 11
- cung cấp các tín hiệu giá cả.(16) Điều này cũng đúng với các doanh nghiệp quốc doanh trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chúng có khả năng mua lao động và nguyên liệu ở mức giá đã được thiết lập trong một môi trường mang tính thị trường. Ở một mức độ chính trị tổng quát hơn, Mises thách thức chủ nghĩa bình quân của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Cần phải lưu ý rằng, vì Mises là một người theo chủ nghĩa thực chứng không khoan nhượng và không phải là người theo chủ nghĩa kinh nghiệm trong những lĩnh vực liên quan đến giá trị đạo đức, nên không phải trên cơ sở của đạo đức học, mà chính từ những lập luận kinh tế vị lợi, ông cho rằng sự bất bình đẳng giữa sự phân công lao động là (17) cần thiết để thu hút các nhân tố đến nơi có thể sử dụng chúng với năng suất cao nhất. Ông đả phá sự phân chia giữa sản xuất và phân phối thu nhập của các nhà xã hội chủ nghĩa và cả những người không phải xã hội chủ nghĩa, như John Stuart Mill chẳng hạn. Quan điểm của ông là sự phân phối thu nhập giữa các nhân tố hoàn toàn là kết quả của sự đóng góp của chúng vào quá trình sản xuất. Lại một lần nữa, với chủ nghĩa chủ quan về đạo đức của Mises, không thể có một nguyên lý đạo đức ngoại biên nào ủng hộ cho các mức thu nhập khác nhau. Trên thực tế, Mises đã có một quan điểm đơn giản về bản chất con người – “tính vị kỷ (egoism) là quy luật của xã hội’.(18) Nhưng trong khi các triết gia chính trị vẫn thường suy diễn từ cái quan niệm về con người hám lợi rằng một chế độ hùng mạnh toàn diện nhất định phải tạo ra một cách nhân tạo một trật tự bất tự nhiên đối với con người, thì Mises lại tuyên bố rằng tính vị kỷ không những vô hại, mà còn là thiết yếu đối với sự tiến hoá tự nhiên của một trật tự kinh tế. Trên thực tế, ông phê phán mạnh mẽ cái mà ông nghĩ là đạo đức về nghĩa vụ và đức hy sinh kiểu Kant tiêu cực; ông coi cái đức hạnh “ngu xuẩn” này như là mầm mống của đức tin xã hội chủ nghĩa.(19) Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phân tích của Mises về mối liên hệ qua lại giữa đức hạnh và chủ nghĩa tư bản phảng phất sự tinh tế của Adam Smith. Thế nhưng, điều quan trọng là nỗ lực của Mises muốn tái lập quan điểm tự do cổ điển truyền thống rằng các nguyên lý thị trường không nằm trong quyền lợi của những người hữu sản, mà rất nhiều trong số họ là những kẻ chuyên cần tìm kiếm những đặc quyền do vị thế của họ mang lại, mà vì lợi thế của các thành viên vô danh trong bất cứ xã hội nào. Chắc chắn là bản thân Mises chưa bao giờ nghĩ tới vần đề hợp pháp hoá việc đòi quyền sở hữu tài sản lúc nguyên khai*9, một vấn đề đã gây khó dễ cho các triết gia của phái tự do cổ điển sau này, nhưng, dù sao thì chúng ta cũng không nên đánh giá thấp cách giải thích đậm tính công cụ của ông về tầm quan trọng của quyền tư hữu tài sản như là một lực lượng thúc đẩy tiến bộ *9 Nghĩa là vấn đề về quyền sở hữu ở thời điểm đầu tiên trong lịch sử nảy sinh quan hệ sở hữu. 12
- của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế rằng sự biện hộ ban đầu của ông đối với xã hội tư bản chủ nghĩa, rằng một người bất kỳ nào cũng có lợi hơn từ xã hội ấy so với các hình thức xã hội khác từng được biết, tự nó làm nảy sinh một số vấn đề. Chính tính chất vô danh đó của xã hội tư bản chủ nghĩa đồng nghĩa với việc không một cá nhân nào có động cơ trực tiếp thúc đẩy hoặc bảo tồn xã hội ấy. Thực vậy, điều mà Mises cứ khăng khăng bảo vệ, là tính phổ quát của chủ nghĩa vị kỷ, cũng đồng nghĩa rằng mỗi cá nhân không thể bị lên án (mang tính đạo đức) do kiếm chác được những đặc quyền đặc lợi từ vị thế của họ, mà điều này, như trong một phân tích của những người theo Mises cho thấy, có tính phá hoại chính xã hội ấy trong dài hạn. Do đó, tồn tại vấn đề “hàng hoá công cộng” nan giải hầu như không thể giải quyết được trong triết học chính trị tự do cổ điển. Một sự thật hiển nhiên là các lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa phi Marxist cảm thấy bối rối trước những hàm ý nêu ra trong bài báo đầu tiên của Mises; Lange đã ca ngợi gần như thái quá nhãn quan sáng suốt của Mises về bản chất vấn đề tính toán. Nhưng rõ ràng là họ đã không hiểu một cách chính xác cái ông đang công kích. Họ nhất trí rằng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ phải giải quyết cùng những vấn đề mà thị trường đang thường xuyên giải quyết cho chủ nghĩa tư bản, nhưng họ lại nghĩ là, dưới hình thức này hay hình thức khác, các kỹ thuật phân tích kinh tế truyền thống có thể được áp dụng cho một nền kinh tế không có các thể chế xã hội mang tính tư bản chủ nghĩa như quyền tư hữu, các hãng và thị trường vốn; mà lại có ít hơn những bất bình đẳng đáng phải loại trừ của các xã hội tư bản chủ nghĩa truyền thống. Mặc dù có chú ý đến điểm cuối cùng này, nhưng hầu như tất cả đều nhất trí rằng vẫn cần phải có sự bất bình đẳng nhất định trong thu nhập: nhưng chỉ ở mức độ cần thiết nhằm hấp dẫn nhân tố lao động tới những nơi sử dụng chúng có năng suất cao nhất mà thôi. Sự đáp trả của các nhà xã hội chủ nghĩa đối với Mises thể hiện dưới hai hình thức có quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức thứ nhất, một mô hình “thống kê”, giả định rằng vấn đề kinh tế nhằm thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng ở mức chi phí thấp nhất có thể, có thể được giải quyết một cách trực tiếp nhờ những giải tích kinh tế không cần tới thị trường, và hình thức thứ hai, được Lange phát triển tới một trình độ cao, chấp nhận thể chế thị trường nhưng giả định là một xã hội dựa vào thị trường có thể vận hành được mà không có các đặc điểm tệ hại của xã hội tư bản chủ nghĩa như vẫn thấy. Cách tiếp cận sau tỏ ra có nhiều ảnh hưởng hơn, nhưng cả hai đều chứa đựng những đặc điểm tương tự nhau về cấu trúc. Vấn đề trên liên quan mật thiết đến bản chất của tri thức kinh tế, nghĩa là, thông tin về sở thích của người tiêu dùng và chi phí sản xuất. Trong thực tế, lúc này các nhà xã hội chủ nghĩa nói rằng, nếu một người biết tất cả những dữ liệu này, thì vấn đề kinh tế trở thành vấn 13
- đề tính toán sắp xếp các nhân tố sản xuất và do đó có thể sản xuất ra một đầu ra cho trước một cách máy móc. Một “trạng thái cứu cánh” (‘end-state’)*10 của hợp tác kinh tế hoàn hảo được thiết lập, trong đó không thể chuyển dời một nhân tố sang một hoạt động khác mà không gây nên sự thiệt hại ròng trong sự thoả mãn của người tiêu dùng. Trạng thái này có thể được định nghĩa là một “trạng thái cứu cánh” cân bằng. Một trong những nhân vật đương đại xuất sắc đại biểu cho quan điểm này, Frank Hahn, trình bày vấn đề súc tích hơn nhiều các lý thuyết gia của thập niên 1930 trong một đoạn như sau: Sự cân bằng của nền kinh tế là một trạng thái tại đó các quyết định độc lập của các hộ gia đình và hãng là tương thích với nhau. Do đó, có một bộ giá cả sao cho nếu chúng phát huy tác dụng, thì có một lựa chọn tối đa hoá lợi nhuận của các hãng và một lựa chọn tối đa hoá lợi ích của các hộ gia đình sao cho tổng cầu về bất cứ hàng hoá nào cũng bằng với số lượng vốn có của chúng, cộng với số lượng được sản xuất ra.(20) Trong mô hình này, thời gian, tính bất trắc, và sự kém hiểu biết bị loại bỏ và mỗi người tham gia giao dịch được giả định là người chấp nhận giá, nghĩa là không thể gây ảnh hưởng đến giá cả mà buộc phải chấp nhận mức giá do một thị trường phi nhân tính đưa ra. Do vậy, mọi giá cả đều “chính xác”. Đây chính là cái trạng thái hoàn hảo mà Taylor, Lange và Dickinson đã cố gắng phấn đấu làm sáng tỏ trong các phiên bản về chủ nghĩa xã hội của họ. Đó là lời giải cho vấn đề tính toán. Nhưng nếu như vậy, vì sao họ phản đối xã hội thị trường? Thật đầy nghịch lý, câu trả lời là, về mặt logic, không đòi hỏi phải có thị trường mới tạo ra được cái trạng thái cứu cánh hài hoà và lý tưởng ngầm định trong lý thuyết về thị trường hoàn hảo. Trong nhãn quan của các nhà xã hội chủ nghĩa (và điều này tất nhiên là đúng) các thị trường trong thực tế chẳng bao giờ hoàn hảo cả. Bỏ sang một bên vấn đề bất bình đẳng về nguồn lực, rõ ràng là trong các thị trường thực, độc quyền sẽ tồn tại và những yếu tố công nghệ nào đó có thể đem lại cho các hãng một lợi thế mà sự cạnh tranh không thể nào loại trừ được; do đó, kết quả là nhiều người tham gia giao dịch sẽ có khả năng gây ảnh hưởng đến giá cả. Không phải tất cả những thứ kém hoàn hảo này đều là kết quả của sự can thiệp của nhà nước. Thêm vào đó, sự bất trắc và kém hiểu biết có mặt ở khắp mọi nơi ngăn không cho sự điều chỉnh xảy ra tức thời như trong lý thuyết thuần tuý. Tất cả những điều này nhất định dẫn tới việc thu nhập của các nhân tố (tiền công, địa tô và tiền lãi, v.v) sẽ không đúng bằng lượng cần thiết để giữ chúng hoạt động, hay nói cách khác, sẽ có cơ hội cho lợi nhuận thuần tuý. Các nhà xã hội chủ nghĩa khẳng định rằng những khiếm khuyết này có thể được loại trừ mà không làm giảm sản lượng. *10 Hoặc “trạng thái khi đạt được mục đích cuối cùng.” 14
- Đây chính là vấn đề trọng yếu mà những đối thủ của Mises gặp phải. Nỗ lực đầu tiên và kém thành công nhất nhằm tái tạo trạng thái cứu cánh lý tưởng này, trên thực tế, mang tính kinh tế lượng thuần tuý và cố gắng bỏ qua hoàn toàn các ý niệm gần gũi về hành động kinh tế của con người. Trong mô hình đầu tiên của Taylor(21), một cơ quan trung ương sẽ tinh toán “bằng kỹ thuật cao” sao cho vấn đề kinh tế quen thuộc là lựa chọn (một cách chủ quan) giữa các cách sử dụng khác nhau cùng một nguồn lực trở thành một vấn đề “thiết kế máy móc”, vấn đề dàn xếp từ những phương tiện cho trước đạt tới những cứu cánh cho trước. Mô hình này cho rằng nhờ một quá trình ước lượng phức tạp, về mặt lý thuyết có thể có khả năng tái tạo những kết quả giống như được các thị trường hoàn hảo tạo ra và do đó loại bỏ được những mất mát phúc lợi tất yếu đi liền với các thị trường không hoàn hảo hiện thời. “Giải pháp” trên cho vấn đề tính toán đã được Hayek xem xét trong bài luận nổi tiếng của ông về chủ nghĩa xã hội, bài “Tình trạng hiện thời của Cuộc tranh luận”. Nhưng trong bài viết này, Hayek đã thừa nhận một điều quan trọng mà đã bị cả những người ủng hộ lẫn không ủng hộ thị trường hiểu nhầm. Về giải pháp toán học, ông viết: “Bây giờ phải thừa nhận rằng đây không còn là điều bất khả thi xét theo nghĩa cho đó là một mâu thuẫn về mặt logic”(22). Ông tiếp tục nói rằng: “để loại bỏ giải pháp này với tư cách một giải pháp không khả thi và phi thực tế về mặt nhân văn, ta chỉ cần thử mường tượng xem trên thực tế sự áp dụng phương (23) pháp này sẽ hàm ý điều gì” Việc có thể chứng minh được tính chặt chẽ về logic của một mô hình kinh tế hài hoà nhân tạo như được thảo luận trên đây nằm ngoài phạm vi cuộc tranh cãi, nhưng điều này khác xa với việc nói rằng có thể tạo ra một lý thuyết xã hội vạch ra cách hiện thực hoá điều này khi không có các thể chế tư bản chủ nghĩa tiêu biểu. Vì vậy, lập luận của Hayek không phải là những khó khăn chỉ đơn thuần là những khó khăn thực tiễn: mà nó nói rằng chính những bất cập về lý thuyết đã làm những khó khăn này trở nên dễ thấy và không thể khắc phục được. Do đó, mặc dù trong bài viết của ông, Hayek nói đến những khó khăn thực tế của việc thu thập số liệu - “chỉ riêng nhiệm vụ xây dựng bảng biểu thống kê thôi đã vượt xa bất cứ mọi nhiệm vụ kiểu này từ xưa tới nay”(24) – và của việc phải giải một lượng khổng lồ các phương trình khi hệ thống sản xuất của nền kinh tế hiện đại bị tập trung hoá, với hàng triệu loại mặt hàng, nhưng những đoạn quan trọng hơn lại là những đoạn liên quan đến các vấn đề mang nặng tính lý thuyết hơn. Lý do tại sao những khó khăn thực tế này nhất định nảy sinh bắt nguồn từ bản chất phân tán của thông tin kinh tế, bản chất liên tục thay đổi của nhưng dữ liệu này (một ví dụ là không thể nào giám sát được khẩu vị của người tiêu dùng) và từ thực tế là 15
- cơ quan trung ương không thể tự có những kiến thức về chi phí sản xuất, mà những kiến thức này phải được phát hiện ra nhờ các tác nhân kinh tế. Những lập luận của Lange Trên thực tế, cách tiếp cận kinh tế lượng thuần tuý đã bị loại bỏ trong những cống hiến quan trọng nhất cho cuộc tranh luận, điều này được thể hiện qua những bài viết của Lange vào năm 1936 và 1937*11. Lange thừa nhận rằng giải pháp toán học là không thực tế, mặc dù ông có vẻ không hiểu vì sao lại thế. Thật lạ lùng, rất lâu sau khi cuộc tranh luận đã chấm dứt, Lange(25) công bố một bài viết quan trọng trong đó ông nhất định cho rằng giải pháp toán học trước kia bây giờ đã khả thi nhờ vào sự phát triển của máy tính - cái đã giúp cho việc xử lý số liệu trở nên dễ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trong những bài viết năm 1936 và 1937, Lange công khai để thị trường làm công việc tính toán: sau đó ông nhận ra rằng đó chính là cái thể chế đang liên tục giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc thừa nhận như vậy mở đường cho cuộc phản công, rằng nếu chương trình xã hội chủ nghĩa chỉ có thể khả thi thông qua sự kết hợp với những thể chế phi xã hội chủ nghĩa, thì phải chăng chính điều đó phủ nhận sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội? Đó chẳng phải là chúng ta trở lại sự phản đối (iii) và chấp nhận một cách đơn thuần các nguyên lý đạo đức ngoại biên của hệ thống thị trường tư bản chủ nghĩa? Đó không phải là câu trả lời của Lange (mặc dù ông thực sự đã đưa một thành tố bình quân chủ nghĩa vào mô hình của ông), bởi vì chúng tôi sẽ cho thấy ông vẫn chủ trường rằng các thị trường tư bản chủ nghĩa tạo ra những bất hiệu quả kinh tế, mà sự tái tổ chức "hợp lý" nền kinh tế có thể khắc phục được điều ấy. Tuy nhiên, Lange thừa nhận rằng nghiệm của các phương trình mà quá trình sản xuất đòi hỏi có thể đạt được tốt hơn dưới một số dạng thức của thị trường. Trong mô hình của Lange, thị trường được thể hiện dưới hai hình thức: thị trường thực thụ và bán thị trường. Có các thị trường thực thụ cho hàng tiêu dùng, mà giá cả trên thị trường đó được quyết định bởi cung và cầu. Hơn nữa, tiền công được xác định bởi thị trường và do đó sẽ nhất định gặp phải vấn đề bất bình đẳng. Tuy nhiên, thu nhập của người tiêu dùng sẽ không chỉ bao gồm tiền công, mà còn gồm cả khoản tiền trả từ một Quỹ Cổ tức Xã hội. Khoản thu nhập thứ hai này là khả thi vì trong hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa, "lợi nhuận", sản phẩm của quyền *11 Oskar Ryszard Lange (1904-1965) là một trong những nhà kinh tế xã hội chủ nghĩa lớn nhất trong thế kỷ XX, từng là học trò của Joseph Schumpeter trong thời gian du học ở Đại học Havard, sau đó giảng dạy ở nhiều trường đại học lớn của Mỹ như Michigan, Chicago. Trong những năm sau Thế chiến, Lange tham gia thành lập chính quyền mới tại Ba Lan. Ông lần lượt nắm giữ các chức vụ Đại sứ Ba Lan tại Hoa kỳ, đại biểu của Ba Lan tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đại biểu quốc hội, và Uỷ viên Trung ương Đảng Lao động Ba Lan. Năm 1948 Lange trở lại với cuộc sống học thuật, giảng dạy tại Trường Kế hoạch và Thống kê Trung ương tại Warsaw và sau đó tại Đại học Warsaw. 16