Giáo trình Tài chính tiền tệ - Huỳnh Đinh Phát

1.1. Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính
1.1.1. Tiền đề sản xuất hàng hóa và tiền tệ
Lịch sử phát triển của xã hội loài người xác nhận rằng, vào cuối thời kỳ công
xã nguyên thủy, phân công lao động xã hội bắt đầu phát triển, đặc biệt là sự phân
công giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Trong điều kiện lịch sử đó, sản xuất và trao đổi hàng hóa xuất hiện, theo đó
tiền tệ đã xuất hiện như một đòi hỏi khách quan với tư cách là vật ngang giá chung
trong quá trình trao đổi.
Sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ làm xuất hiện các nguồn tài
chính, đó là: của cải xã hội được biểu hện dưới hình thức giá trị.
Khái niệm về nguồn tài chính gắn liền với nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ và
sự xuất hiện của nó làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa – tiền tệ, hình thức tiền tệ đã được các chủ
thể trong xã hội sử dụng vào việc phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
để tạo lập nên các quỹ tiền tệ riêng phục vụ cho những mục đích riêng của mỗi chủ
thể.
1.1.2. Tiền đề Nhà nước
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng đã chứng minh rằng, vào cuối
thời kỳ công xã nguyên thủy khi chế độ tư hữu xuất hiện thì xã hội bắt đầu phân
chia thành các giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội.
Chính sự xuất hiện của sản xuất – trao đổi hàng hóa và tiền tệ là một trong
những nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và đối kháng
giai cấp. Trong điều kiện lịch sử đó, Nhà nước đã xuất hiện.
Khi Nhà nước xuất hiện với tư cách là người có quyền lực chính trị, Nhà
nước đã nắm lấy việc đúc tiền, in tiền và lưu thông đồng tiền; tác động đến sự vận
động độc lập của đồng tiền trên phương diện quy định hiệu lực pháp lý của đồng
tiền và tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Nhà nước tham gia trực tiếp và việc huy động, phân phối và sử dụng một bộ
phận quan trọng của cải xã hội để đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của mình bằng nhiều kinh thức khác nhau theo nguyên tăc bắt buộc hay tự
nguyện.
Hoạt động phân phối tài chính là khách quan nhưng chịu sự chi phối trực tiếp
hay gián tiếp của Nhà nước thông qua các chính sách được ban hành và áp dụng
trong nền kinh tế như: chính sách thuế, chính sách tiền tệ…
Việc phân phối các nguồn tài chính trong xã hội ở các chủ thể khác nhau bao
giờ cũng phải tuân theo chế độ chính sách chung của Nhà nước và tùy theo yêu cầu
quản lý trong từng giai đoạn lịch sử nhất định gắn với các chế độ xã hội khác nhau:
Nhà nước có lúc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển các quan hệ phân phối tài
chính.
Bằng quyền lực chính trị và thông qua một hệ thống đường lối chính sách,
chế độ, Nhà nước đã tạo nên môi trường pháp lý cho sự hoạt động của tài chính,
đồng thời nắm lấy việc đúc tiền, in tiền và lưu thông đồng tiền.
Kết luận: sản xuất hàng hóa và tiền tệ là nhân tố mang tính khách quan có ý
nghĩa quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. Nhà nước là nhân tố
có ý nghĩa định hướng tạo ra hành lang và điều tiết sự phát triển của tài chính. 
pdf 167 trang hoanghoa 08/11/2022 9480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính tiền tệ - Huỳnh Đinh Phát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tai_chinh_tien_te_huynh_dinh_phat.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tài chính tiền tệ - Huỳnh Đinh Phát

  1. quỹ này có thể được sử dụng tạm thời như các quỹ tín dụng. Như vậy, Bảo hiểm cũng có thể có quan hệ với các khâu khác thông qua thị trường tài chính. Do vậy Bảo hiểm được xem như là một khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính. 1.4.2.4. Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội Các hộ gia đình và các tổ chức xã hội cũng là một khâu trong hệ thống tài chính, có đặc trưng cơ bản là gắn liền với các quỹ tiền tệ được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng. - Nhiệm vụ của tài chính hộ gia đình là: + Tạo lập quỹ tiền tệ từ tiền lương, tiền công, thu nhập của các thành viên trong gia đình do lao động hay sản xuất kinh doanh, từ nguồn thừa kế tài sản, từ nguồn biếu tặng lẫn nhau trong và ngoài nước, từ các nguồn khác như: lãi tiền gửi ngân hàng, lợi tức từ những khoản góp vốn, mua trái phiếu, cổ phiếu + Sử dụng các quỹ tiền tệ đã tạo lập chủ yếu cho mục đích tiêu dùng của gia đình, nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các hộ gia đình cũng có thể được sử dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ gia đình hoặc tham gia vòa thị trường tài chính qua việc góp cổ phần mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu - Nhiệm vụ của tài chính các tổ chức xã hội: + Tạo lập quỹ tiền tệ thông qua sự đóng góp hội phí, quyên góp, ủng hộ của các thành viên trong, ngoài nước và của các cá nhân, các tổ chức xã hội khác và của Chính phủ. + Sử dụng quỹ tiền tệ đã được tạo lập nhằm mục đích tiêu dùng cho hoạt động của các tổ chức xã hội. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Câu hỏi ôn tập: 1. Phân biệt phạm trù tài chính với: - Phạm trù tiền tệ. - Phạm trù lưu thông. - Phạm trù giá cả. - Phạm trù tiền lương. 10
  2. 2. Chứng minh nhận định: Thị trường tài chính lúc đang hoạt động hữu hiệu sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội. 3. Chỉ rõ điểm khác nhau căn bản giữa quan hệ tài chính phi thị trường và quan hệ tài chính theo phương thức thị trường. Chuyên đề thảo luận: Phân tích các mục tiêu, công cụ và cơ chế vận hành của Chính sách Tài chính Quốc gia. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam. 1. Khái quát chung về Chính sách Tài chính quốc gia: Khái niệm và nhận thức về Chính sách Tài chính quốc gia. Vị trí và các bộ phận cấu thành Chính sách Tài chính quốc gia. 2. Mục tiêu của Chính sách Tài chính quốc gia: Nhóm mục tiêu về ổn định: 4-5 mục tiêu. Nhóm mục tiêu về tăng trưởng: 2 mục tiêu Mối quan hệ giữa các mục tiêu trong mỗi nhóm và giữa hai nhóm. 3. Công cụ và cơ chế vận hành của các công cụ: Các công cụ của Chính sách Tiền tệ. Các công cụ của Chính sách Tài khoá. Mô tả cơ chế vận hành của các công cụ trong những tình huống lạm phát hay thiểu phát. 4. Thực trạng việc xây dựng và vận hành Chính sách Tài chính quốc gia ở Việt Nam Chính sách Tiền tệ: ở nước ta, ngoài 3 công cụ nói trên, còn các công cụ khác theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1998. Tuy vậy chưa có cơ chế thống nhất vận hành và điều chỉnh vẫn mang tính chất sự vụ, thiếu chủ động. Chính sách Tài Khoá: mới chỉ hạn chế ở chính sách Thuế (thu) và chính sách Chi tiêu. Tuy nhiên việc xác định các khoản mục trong các chính sách đó còn nhiều bất cập. Khác với chính sách Tiền tệ, chính sách Tài khoá được xây dựng mang nặng tính chất và mục tiêu thực hiện chế độ và còn rất mờ nhạt ở Việt Nam. 11
  3. Chương 2 NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2.1. Những vấn đề chung về ngân sách Nhà nước 2.1.1 Khái niệm về ngân sách nhà nước Trong hệ thông tài chính thống nhất, ngân sách nhà nước (NSNN) là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý Nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa – tiền tệ. Thuật ngữ “ngân sách nhà nước” đã có từ lâu và ngày nay được sử dụng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Song, cho đến nay chưa có một quan niệm thống nhất về ngân sách nhà nước. Trên thực tế, người ta đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước không giống nhau tùy theo quan điểm của người định nghĩa thuộc các trường phái kinh tế khác nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu khác nhau. Hiện nay có những quan niệm về ngân sách nhà nước như sau: (1) Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. (2) Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước. (3) Ngân sách nhà nước là những quan hệ kinh tế phất sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau. Luật ngân sách nhà nước được nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16/12/2002 cũng có ghi “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện cá chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.” Từ các quan điểm trên, ta có thể xác định: NSNN là các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. 12
  4. 2.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước - Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. - Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở 2 lĩnh vực thu và chi của nhà nước. - Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng. - Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét riêng biệt của NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định. - Hoạt động thu chi của NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. 2.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước 2.1.3.1. Ngân sách nhà nước huy động các nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước và thực hiện sự cân đối tài chính Nhà nước Bất kỳ một mô hình kinh tế nào, Nhà nước muốn tồn tại và thực hiện được các chức năng của mình đòi hỏi phải có nguồn tài chính để thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu đã xác định. Trải qua các giai đoạn lịch sử, NSNN thật sự trở thành công cụ huy dộng các nguồn lực tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, do đó vai trò này còn được gọi là vai trò truyền thống của NSNN. 2.1.3.2. Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội a. Về mặt kinh tế Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiên việc định hướng, hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Thông qua thu, chi NSNN thực hiên các mục tiêu sau: 13
  5. - NSNN cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các ngành then chốt. - Hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới, hợp lý hơn. - Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo vai trò định hướng đầu tư kích thích hoặc hạn chế sản xuất – kinh doanh. - Tranh thủ các nguồn vốn vay trog và ngoài nước để tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư phát triển. b. Về mặt xã hội - Đầu tư của ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội: chi giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, sắp xếp lao động và việc làm, trợ giá hàng hóa - Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết những đối tượng có thu nhập cao để phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp. - Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm. c. Về mặt thị trường - Bằng công cụ thuế, chi tiêu và quỹ dự phòng, Nhà nước có thể chủ động tác động vào khía cạnh cung hoặc cầu hàng hóa để bình ổn giá cả. - NSNN được sử dụng như một công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. + Đối với thị trường hàng hóa: hoạt động điều tiết của Chính phủ thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ của Nhà nước bằn tiền, ngoại tệ, các loại vật tư, hàng hóa được hình thành từ nguồn thu của NSNN. + Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động, hoạt động điều tiết của Chính phủ thông qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả như: phát hành trái phiếu, công trái, tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã hội. Khi lạm phát xảy ra: giá cả tăng lên do cung cầu mất cân đối. Chính phủ có thể dùng biện pháp: 14
  6. + Tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư phát triển. + Thắt chặt các khoản chi tiêu của NSNN, đặc biệt là chi tiêu dùng. + Không phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách. + Tăng cường các khoản vay trong dân, góp phần giảm tiền mặt trong nền kinh tế. 2.1.3.3. Ngân sách nhà nước đối với việc củng cố tăng cường sức mạnh của bộ máy nhà nước, bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh NSNN là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho hoạt động của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến xã, phường. NSNN còn cung ứng nguồn tài chính cho Đảng cộng sản lãnh đạo hoạt động, tài trợ cho các tổ chức xã hội. Như vậy có thể nói, cả hệ thống chính trị của Nhà nước ta đều do NSNN cung ứng nguồn tài chính. 2.1.3.4. Vai trò kiểm tra của NSNN NSNN có mối quan hệ mật thiết với các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính quốc gia. NSNN kiểm tra các hoạt động tài chính thông qua nghĩa vụ nộp thuế và các khoản nộp; việc thực hiện pháp luật, chính sách về ngân sách trong việc sử dụng các nguồn tài chính. Kiểm tra của NSNN gắn chặt với quyền lực Nhà nước, nhất là quyền lực của hệ thống hành chính Nhà nước. Một mặt trong hoạt động quản lý và kiểm tra của Nhà nước, có tác động sâu sắc tới các hoạt động tài chính khác và có vai trò quan trọng góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và dân chủ. 2.2. Nội dung của Ngân sách sách nhà nước 2.2.1. Thu ngân sách nhà nước 2.2.1.1. Khái niệm Thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ Ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước. 2.2.1.2. Đặc điểm - Cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là điều kiện 15
  7. xuất hiện những khoản thu NSNN. Ngược lại đến lượt mình, các khoản thu NSNN là tiền đề vật chất không thể thiếu được để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước đều được thể chế hoá bởi các chính sách, chế độ, pháp luật của nhà nước. - Thu NSNN được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng chung quy lại là bắt nguồn từ nền kinh tế quốc dân và gắn chặt với kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy thu NSNN phải dựa vào thực trạng nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. 2.2.1.3. Nội dung kinh tế của thu ngân sách nhà nước a. Nội dung - Thuế Thuế là một khoản thu bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức và cá nhân nhằm trang trải mọi chi phí vì lợi ích chung. - Phí và lệ phí Phí và lệ phí là các khoản thu mang tính chất bắt buộc nhưng có tính chất đối giá, nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà dân chúng trả cho nhà nước khi họ hưởng thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn. Phí gắn liền với vấn đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các thể nhân và pháp nhân. - Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước Các khoản thu này bao gồm: +Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế. + Tiền thu hồi vốn của nhà nước tại các cơ sở kinh tế. + Thu hồi tiền cho vay của nhà nước. - Thu từ các hoạt động sự nghiệp - Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước 16
  8. - Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân nước ngoài, từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. - Thu khác: thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản b. Phân loại thu NSNN - Phân loại theo nội dung kinh tế: + Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí với nhiều hình thức cụ thể do luật định. + Nhóm thu không thường xuyên: các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước và các khoản thu khác. - Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN: + Thu trong cân đối NSNN: bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không thường xuyên. + Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: Khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu và nhà nước phải đi vay, bao gồm: vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội, vay từ nước ngoài. 2.2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN a. Thu nhập GDP bình quân đầu người Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân đầu người là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN. b. Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn là nhân tố quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN. c.Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài nguyên phong phú thì nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến số thu NSNN. d. Mức độ trang trải các khoản chi phí của nhà nước Nhân tố này phụ thuộc vào: 17
  9. - Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó. - Những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nhà nước đảm nhận trong thời kỳ. - Chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước. Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của nhà nước sẽ dẫn đến tỷ suất thu NSNN tăng. e. Tổ chức bộ máy thu nộp Tổ chức bộ máy thu nộp sẽ ảnh hưởng tới thu NSNN. Nếu bộ máy thu nộp được tổ chức gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả cao, chống thất thu do trốn, lậu thuế thì sẽ là nhân tố tích cực làm tăng thu NSNN. 2.2.1.5. Nguyên tắc thiết lập hệ thông thu NSNN Trong quá trình cải cách và hoàn thiện hệ thống thuu ngân sách ở Việt Nam, đặc biệt là hệ thống thuế cần tôn trọng và chấp hàn các nguyên tắc: - Các nguyên tắc định hướng: + Nguyên tắc thu thuế theo lợi ích: Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ thống thuế phải căn cứ vào lợi ích người nộp thuế có thể nhận được từ hàng hoá xã hội mà Nhà nước cung cấp. Tuy nhiên, trên thực tế khó mà xác định được mức độ lợi ích mà từng người nộp thuế có thể nhận được từ việc cung cấp hàng hoá xã hội của Nhà nước. Mặt khác, việc thu thuế của Nhà nước không chỉ nhằm trang trải các chi phí Nhà nước bỏ ra để sản xuất hàng hoá xã hội mà còn nhằm vào mục đích xã hội khác như trợ cấp, cứu tế Do vậy, nếu sử dụng nguyên tắc này trong việc thiết lập hệ thống thu sẽ thu hẹp các chức năng xã hội của Nhà nước. + Nguyên tắc thu thuế theo khả năng: Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ thống thuế căn cứ vào khả năng thu nhập của mỗi người. Nguyên tắc này có nhược điểm là khó xác định một cách chính xác, đầy đủ khả năng thu nhập của người nộp thuế và phải tạo ra nhiều mức thuế mới đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc này. - Các nguyên tắc thực hiện trong thực tế: + Nguyên tắc ổn định và lâu dài 18
  10. Theo nguyên tắc này, trong những điều kiện hoạt động kinh tế bình thường cần thiết phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không gây xáo trộn thuế trong nền kinh tế. + Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế. Việc thiết lập hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. + Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn Nguyên tắc này yêu cầu các sắc thuế được quy định trong luật phải thể hiện đầy đủ các tiêu thức (đối tượng nộp, đối tượng tính, mức thu, thủ tục nộp, ). + Nguyên tắc đơn giản Theo nguyên tắc này, mỗi sắc thuế cần hạn chế số lượng thuế suất, có thể tiến đến áp dụng một thuế suất, cần xác định rõ mục tiêu chính và không nên đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế. + Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế Thiết lập hệ thống thuế phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế về đối tượng tính thuế, phương thức thu nộp, thuế suất 2.2.1.6. Các giải pháp bồi dưỡng nguồn thu ngân sách nhà nước Muốn tăng trưởng nền kinh tế phải có số vốn lớn và phải huy động tối đa các nguồn tài chính để dùng cho đầu tư phát triển kinh tế và cần phải đảm bảo sự tăng trưởng bền vững. Để bồi dưỡng nguồn thu NSNN cần phải thực hiện các giải pháp sau: - Thứ nhất, Nhà nước bên cạnh việc khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia tăng thu cho ngân sách thì cũng cần phải dành kinh phí thoả đáng để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá huỷ tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt. - Thứ hai, chính sách thuế Nhà nước phải vừa huy động được cho Nhà nước, phải vừa khuyến khích tích tụ vốn của doanh nghiệp và dân cư. Vì vậy, cần phải ổn định mức huy động bằng thuế của Nhà nước và phải sửa đổi, bổ sung chính sách thuế cho phù hợp với thu nhập của các doanh nghiệp và của dân cư. 19
  11. - Thứ ba, chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt NSNN cần được đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân. Nếu Nhà nước vay quá lớn, dân sẽ không cải thiện được đời sống, không còn khả năng tự đầu tư để phát triển, giải quyết những vấn đề mà Nhà nước chưa giải quyết được như thu nhập, việc làm đồng thời khó khăn trong việc tạo ra nguồn tài chính mới. - Thứ tư, Nhà nước sử dụng vốn NSNN để đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp quan trọng trên những ngành, những lĩnh vực then chốt nhằm định hướng phát triển kinh tê - xã hội và tạo ra nguồn tài chính mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào con người, đào tạo nghề, nâng cao dân trí, phát triển khoa học, chăm sóc sức khoẻ để có một đội ngũ lao động có tay nghề cao, năng suất lao động cao. - Thứ năm, Nhà nước phải giảm chi tiêu cho tiêu dùng, tinh giản bộ máy Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính để tích luỹ vốn chi đầu tư, đồng thời khuyến khích mọi người tiết kiệm tiêu dùng dành vốn cho đầu tư phát triển. 2.2.2. Chi ngân sách nhà nước 2.2.2.1. Khái niệm Chi Ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. 2.2.2.2. Đặc điểm - Chi NSNN gắn với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ. - Chi NSNN gắn liền với quyền lực Nhà nước Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi NSNN và phân bổ nguồn vốn ngân sách cho các mục tiêu quan trọng nhất. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều hành các khoản chi NSNN. Do đó, chi NSNN mang tính pháp lý cao làm cho NSNN trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều hành, quản lý kinh tê - xã hội của Nhà nước. - Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được xem xét trên tầm vĩ mô, thông qua việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng mà các khoản chi ngân sách đảm nhận. 20
  12. - Chi NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Đó là hình thức cấp phát trực tiếp của Nhà nước vào các lĩnh vực của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Các khoản cấp phát từ NSNN cho các ngành, các cấp, các hoạt động kinh tế - xã hội, giúp đỡ người nghèo không phải trả giá hoặc hoàn lại cho Nhà nước. Tuy nhiên, NSNN cũng có những khoản chi cho việc thực hiện chương trình mục tiêu dưới hình thức cho vay ưu đãi có hoàn trả gốc với lãi suất rất thấp ( hoặc không có lãi) như chi giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo - Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn chặt với sự vận động của phạm trù giá trị khác tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái Mối quan hệ giữa chi NSNN với các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong việc thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, công ăn việc làm, giá cả 2.2.2.3. Nội dung kinh tế của chi Ngân sách nhà nước * Căn cứ vào mục đích chi tiêu, nội dung chi NSNN được chia thành hai nhóm: - Chi tích luỹ của NSNN: là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế, bao gồm: chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cấp vốn lưu động, chi dự trữ vật tư của nhà nước, và các khoản chi tích luỹ khác. - Chi tiêu dùng của NSNN: là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai, bao gồm chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp văn hoá xã hội, chi quản lý hành chính Nhà nước, chi quốc phòng an ninh và chi tiêu dùng khác. * Căn cứ vào lĩnh vực chi tiêu, nội dung chi NSNN bao gồm: - Chi sự nghiệp kinh tế; - Chi cho y tế; - Chi cho giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học; - Chi cho văn hóa, thể thao; - Chi về xã hội; 21