Giáo trình Tài chính công - Chương 6: Tài chính quốc tế

1. Khái niệm
Tài chính quốc tế là hệ thống những quan hệ kinh tế dưới hình thái phân phối giá trị nảy
sinh giữa nhà nước hoặc các tổ chức của nhà nước với các nhà nước khác, các tổ chức của
các nhà nước khác, các công dân nước ngoài và với các tổ chức quốc tế, gắn liền với các
dòng lưu chuyển hàng hóa và tiền vốn trên thế giới theo những nguyên tắc nhất định.
Tuy cũng là một khâu trong hệ thống tài chính, nhưng khác với các khâu tài chính khác
trong hệ thống tài chính, khâu tài chính quốc tế tồn tại không như là tụ điểm tài chính hiện
hữu. Các hoạt động tài chính quốc tế được thực hiện đan xen ở tất cả các khâu tài chính
khác
2. Cơ sở hình thành và phát triển của tài chính quốc tế
Tài chính quốc tế được hình thành trên hai cơ sở chính: (i) Phân công lao động và hợp tác
quốc tế và (ii) Sự phát triển của các hoạt động đầu tư quốc tế.
Sự phân công lao động đã làm cho năng suất lao động tăng nhanh và dẫn tới khối lượng
của cải của quốc gia ở một số lĩnh vực có cung vượt cầu và ngược lại có những loại hàng
hóa có cầu vượt cung. Thêm vào đó việc phát triển các mối giao lưu và hợp tác quốc tế làm
cho hoạt động trao đổi hàng hóa trong nước và quốc tế gia tăng phát sinh từ quan hệ cung
cầu cơ bản của thị trường. Việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia đã phát sinh các nghĩa
vụ và quyền lợi về tài chính gắn liền với các hoạt động này.
Việc hợp tác quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại của các quốc gia cũng đã dẫn tới sự phát
triển của các hoạt động đầu tư quốc tế để tìm một mức lợi nhuận tốt hơn ở nước ngoài thay
vì trong nước. Các hoạt động này đã làm nguồn vốn chu chuyển liên tục giữa các quốc gia
theo hình thức: FDI, ODA, Chứng khoán, tín dụng từ các định chế tài chính quốc tế…Có
thể nói, sự phát triển các hình thức đầu tư quốc tế đã làm cho hoạt động tài chính quốc tế
được nâng lên ở tầm cao hơn, kết hợp hoạt động thu chi thương mại, dịch vụ quốc tế hình
thành nên cán cân thanh toán quốc tế tổng thể của một quốc gia. Kết quả của cán cân này
sẽ quyết định vị thế tài chính quốc tế của mỗi nước. Đó cũng là biểu hiện tình trạng phát
triển kinh tế trong sự cân đối giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại của một quốc gia. 
pdf 22 trang hoanghoa 08/11/2022 5740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính công - Chương 6: Tài chính quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tai_chinh_cong_chuong_6_tai_chinh_quoc_te.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tài chính công - Chương 6: Tài chính quốc tế

  1. Chú ý: Sự khác nhau giữa chế độ tỷ giá thả nổi và chế độ tỷ giá cố định biểu hiện ở chỗ, các chế độ tỷ giá cố định đều có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với vàng như căn cứ vào đồng giá vàng hay đồng giá đôla Mỹ đổi được lấy vàng làm cơ sở xác định tỷ giá hối đoái. Còn chế độ tỷ giá thả nổi thì để cho các lực lượng cung cầu ngoại hối trên thị trường xác định lấy tỷ giá hối đoái một cách tự do hoặc có can thiệp nhất định khi cần thiết của Chính phủ vào thị trường hối đoái. 6. Các nhân tố chủ yếu tác động tới tỷ giá 6.1. Lạm phát Chênh lệch lạm phát của hai nước làm ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái giữa hai quốc gia. Theo lý thuyết cân bằng sức mua, tỷ giá hối đoái phản ánh so sánh sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ hay mức giá trong nước và mức giá của nước ngoài. Vì vậy, khi chênh lệch lạm phát giữa hai nước thay đổi, tức là mức giá cả ở hai nước này thay đổi, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước đó sẽ biến động theo. Nếu mức lạm phát trong nước cao hơn mức lạm phát của nước ngoài, sức mua của đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng lên. Ngược lại, nếu mức lạm phát trong nước thấp hơn mức lạm phát ở nước ngoài, sức mua của đồng nội tệ tăng tương đối so với đồng ngoại tệ và tỷ giá giảm xuống. Ví dụ: trước lạm phát, mặt hàng A bán tại Mỹ với giá 1 USD, bán tại Việt Nam với giá 21.000 VND. Tỷ giá hối đoái USD/VND lúc này là 1 USD = 21.000 VND. Năm 2012,
  2. mức lạm phát tại Mỹ là 3.1%, tại Việt Nam là 6.81% thì mức giá của mặt hàng A lúc này đã thay đổi. Ở Mỹ, mặt hàng A sẽ được bán với giá 1 USD + 1USD×3.1% = 1.031 USD. Tại Việt Nam, giá của mặt hàng A do tác động của lạm phát lúc này sẽ là 21.000 VND + 6.81%×21.000 VND = 22430.1VND. Như vậy, do chênh lệch lạm phát dương giữa Việt Nam và Mỹ, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền này đã tăng lên mức là: 1USD = 22,430.1/1.031 = 21755.67. Mức tăng: (21755.67 – 21000)/21000 = 0.036 = 3.6%. 6.2. Lãi suất Nước nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn thì luồng vốn ngắn hạn có xu hướng chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi và tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm. Để xác định mức lãi suất của một nước là cao hay thấp, thông thường người ta so sánh mức lãi suất của nước đó với các lãi suất quốc tế như lãi suất đi vay trên thị trường liên ngân hàng London LIBID, lãi suất quốc tế trên thị trường liên ngân hàng Singapore SIBID Cần lưu ý rằng, chênh lệch lãi suất có tác động tới sự biến động của tỷ giá nhưng đó chỉ là sự tác động gián tiếp chứ không phải trực tiếp bởi lãi suất trong nhiều trường hợp không phải là nhân tố quyết định tới sự di chuyển của các dòng vốn. Chênh lệch lãi suất phải trong điều kiện ổn định kinh tế chính trị thì mới thu hút được nhiều vốn ngắn hạn từ bên ngoài đổ vào. 6.3. Thu nhập Nền kinh tế của một nước tăng trưởng làm cho thu nhập của người dân tăng. Điều này dẫn tới một thực tế là nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu tăng do đó làm tăng cung đồng nội tệ để mua ngoại tệ (cầu ngoại tệ tăng) điề này làm cho tỷ giá tăng. 6.4. Cán cân thanh toán giữa các nước Cán cân thanh toán quốc tế có tác động rất quan trọng đến tỷ giá hối đoái. Tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế sẽ tác động trực tiếp đến cung và cầu ngoại hối, do đó nó tác động trực tiếp và rất nhạy bén đến tỷ giá hối đoái. Về nguyên tắc, nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung ngoại hối lớn hơn cầu ngoại hối, từ đó làm cho tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm. Ngược lại nếu cán cân thanh toán quốc tế thiếu hụt
  3. có thể dẫn đến cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối, từ đó tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng. Trong cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại có tác động cực kỳ quan trọng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái mà các nhà kinh tế đều công nhận. Đây là nhân tố cơ bản đứng sau lưng tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên tuỳ vào điều kiện của mỗi nước và trong từng giai đoạn phát triển, các cán cân khác cũng có vai trò rất lợi hại, ví dụ như cán cân giao dịch vốn. Cụ thể ở điều kiện của Việt Nam trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh tạo nên dòng chảy ngoại tệ vào trong nước rất lớn thể hiện trong tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế, từ đó tác động lên cung ngoại hối và tỷ giá hối đoái. 6.5. Đầu cơ Trên thị trường hối đoái luôn xuất hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ nhằm mục đích kiếm lời. Thông thường họ sẽ kinh doanh theo kỳ vọng. Nếu dự đoán một đồng tiền nào đó sẽ tăng thì ngay lập tức họ sẽ mua. Khi dự kiến đồng tiền nào sẽ giảm và giảm tới mức nào đó sẽ tăng giá trở lại, họ sẽ ngay lập tức bán ra đồng tiền sẽ mất giá để sau đó mua lại đồng tiền đã bán để hưởng mức chênh lệch. Những việc như này sẽ làm cho cung cầu ngoại tệ thay đổi và dẫn tới tỷ giá thay đổi. Thông thường những nhà đầu cơ lớn sẽ có thể tác động nhất định tới thị trường hối đoái. 6.6. Chính sách của chính phủ Các chính sách của chính phủ như phá giá tiền tệ, tăng giá tiền tệ, mua bán ngoại hối thông qua hoạt động thị trường mở sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên tỷ giá làm tỷ giá thay đổi. III. Cán cân thanh toán quốc tế (BOP) 1. Khái niệm BOP Thuật ngữ cán cân thanh toán quốc tế xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của phạm trù tài chính quốc tế. Vào thế kỷ 15, 16, hoạt động thương mại quốc tế trở nên phát triển, các nhà kinh tế rất quan tâm đến sự cân bằng giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu (cán cân thương mại), bởi lẽ nó ảnh hưởng đến trạng thái thị trường kim loại vàng của một quốc gia. Cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19, chủ nghĩa kinh tế tự do phát triển mạnh, bên cạnh các khoản thu nhập từ hoạt động xuất, nhập khẩu, các quốc gia còn có những khoản thu nhập từ các hoạt động cung cấp dịch vụ quốc tế lẫn nhau, từ đó, làm cho cán cân đối
  4. ngoại mở rộng hơn ngoài phạm vi cán cân thương mại. Đến đầu thế kỷ thứ 20, do sự phát triển các hình thức đầu tư vốn trực tiếp, gián tiếp giữa các quốc gia, cho nên nhu cầu thiết lập một cán cân thanh toán tổng hợp để phản ánh tất cả những ràng buộc lẫn nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng trở nên cấp bách. Tuy vậy, cho đến sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các nước mới thiết lập cán cân thanh toán quốc tế hoàn chỉnh. Để thực hiện chức năng giám sát tiền tệ của các nước thành viên, vào năm 1948, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho các nước thành viên trong việc thống nhất báo cáo về cán cân thanh toán quốc tế của mình. BOP thực chất là một bản báo cáo thống kê ghi chép và phản ánh các giao dịch kinh tế giữa những người cư trú với người không cư trú (theo IMF). Có 2 loại cán cân thanh toán quốc tế: . Cán cân thanh toán quốc tế thời kỳ: Là cán cân thanh toán phản ánh tất cả các khoản ngoại tệ đã thu và đã chi của một nước với nước khác. . Cán cân thanh toán quốc tế thời điểm: Là cán cân thanh toán phản ánh những khoản ngoại tệ sẽ thu và sẽ chi vào một thời điểm nào đó. 2. Nguyên tắc lập BOP Nguyên tắc lập BOP dựa trên nguyên tắc hạch toán ghi sổ kép. Hạch toán trong giao dịch quốc tế được thực hiện theo nguyên tắc ghi sổ kép. Điều này có nghĩa là mỗi một giao dịch được ghi kép, một lần ghi Nợ và một lần ghi Có với giá trị như nhau. Các giao dịch chuyển tiền quốc tế được phản ánh vào bên Thu (Có) và bên Chi (Nợ) của cán cân thanh toán. Bên thu: khoản thu từ người không cư trú được ghi “có” và biểu hiện bằng dấu “+”: phản ánh sự gia tăng của cung ngoại tệ. Bên chi: Khoản chi cho người không cư trú được ghi “nợ” và biểu hiện bằng dấu “-”, phản ánh sự gia tăng về cầu ngoại tệ 3. Cấu trúc BOP Cấu trúc của BOP như sau:
  5. Cán cân thương mại Cán cân phản ánh những khoản thu chi về xuất nhập khẩu hàng hoá trong một thời kỳ nhất định Khoản thu từ xuất khẩu được phản ánh bên “Có” với dấu “+” và chi cho nhập khẩu hàng hoá ghi ở bên “Nợ” với dấu “-” Khi cán cân thương mại thặng dư điều này có nghĩa là nước đó đã thu được từ xuất khẩu nhiều hơn phải trả cho nhập khẩu. Ngược lại là bội chi. Cán cân thương mại tác động trực tiếp đến cung, cầu, giá cả hàng hoá và sự biến động của tỷ giá, tiếp đến, sẽ tác động đến cả cung cầu nội tệ và tình hình lạm phát trong nước. Cán cân dịch vụ Phản ánh các khoản thu – chi về các hoạt động dịch vụ: vận tải, tài chính, viễn thông, y tế, giáo dục
  6. Các dịch vụ cung ứng cho người không cư trú sẽ làm tăng cung ngoại tệ, được ghi vào bên “Có” với dấu “+” và ngược lại. Cán cân thu nhập Phản ánh những khoản thu nhập của người lao động (tiền lương, thưởng), thu nhập từ đầu tư và tiền lãi của những người cư trú và không cư trú Các khoản thu nhập của người cư trú được trả bởi người không cư trú sẽ làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi vào bên “Có” với dấu “+”. Ngược lại các khoản chi trả cho người không cư trú sẽ làm phát sinh cầu ngoại tệ, sẽ được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-” Cán cân chuyển giao vãng lai Phản ánh những khoản viện trợ không hoàn lại, giá trị của những khoản quà tặng và các chuyển giao khác bằng tiền và hiện vật cho mục đích tiêu dùng giữa người cư trú và không cư trú: Phản ánh sự phân phối lại thu nhập Các khoản thu (nhận) phát sinh cung ngoại tệ/cầu nội tệ nên được ghi vào bên “Có” với dấu “+”. Ngược lại, các khoản chi (cho) phát sinh cầu ngoại tệ/cung nội tệ nên được hạch toán vào bên “Nợ” với dấu “-” Cán cân di chuyển vốn dài hạn Bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước dưới các hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp và các hình thức đầu tư dài hạn khác Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của Nguồn vốn (TSN), nhưng làm tăng cung ngoại tệ nên vẫn được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, luồng vốn đi ra phản ánh sự gia tăng của TS (TSC) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên vẫn được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-” Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn Phản ánh các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân (chiếm tỷ trọng lớn) và khu vực nhà nước dưới rất nhiều các các hình thức khác nhau: Tín dụng thương mại, tín dụng
  7. ngân hàng, các hoạt động trên kinh doanh ngoại hối và giấy tờ có giá ngắn hạn kể cả các luồng vốn đầu cơ Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của NV (TSN), do làm tăng cung ngoại tệ nên vẫn được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, luồng vốn đi ra phản ánh sự gia tăng của TS (TSC) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên vẫn được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-”. Cán cân di chuyển vốn một chiều Phản ánh các khoản chuyển giao vốn một chiều như viện trợ không hoàn lại với mục đích đầu tư, các khoản nợ được xoá Khi được nhận các khoản viện trợ không hoàn lại và được xoá nợ, tương tự như luồng vốn đi vào, gia tăng NV (TSN), làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, khi viện trợ hay xoá nợ cho người không cư trú, luồng vốn đã đi ra làm tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-” Lỗi và sai sót Sự sai lệch về thống kê do nhầm lẫn, bỏ sót hoặc không thu thập được số liệu Nguyên nhân sai lệch: Những ghi chép của những khoản thanh toán hoặc hoá đơn quốc tế được thực hiện vào những thời gian khác nhau, địa điểm khác nhau và có thể bằng những phương pháp khác nhau. Cán cân tổng thể Là tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn nếu không có lỗi và sai xót Kết quả của cán cân thanh toán mang dấu +: thu ngoại tệ của quốc gia đã (sẽ) tăng thêm. Kết quả của cán cân thanh toán mang dấu -:thu ngoại tệ của quốc gia giảm hoặc sẽ giảm thấp Cán cân dự trữ
  8. Phản ánh dự trữ ngoại hối của quốc gia tăng thêm hay giảm đi. Phần dự trữcán cân được tổng hợp trên cơ sở những thay đổi trong tài sản Có ngoại tệ ròng, thay đổi về nợ quá hạn và các nguồn tài trợ khác Tài sản Có ngoại tệ ròng là phần chênh lệch tài sản Có ngoại tệ và tài sản Nợ ngoại tệ thể hiện trên bảng cân đối thống kê tiền tệ tổng hợp của ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng. Nợ quá hạn phản ánh khoản nợ nước ngoài đến hạn mà chưa trả được, có thể cơ cấu lại. Các nguồn tài trợ bao gồm nguồn tín dụng từ quỹ và các khoản dự trữ quốc tế khác Một số phương trình cân bằng . Cán cân vãng lai = Cán cân hữu hình + cán cân vô hình . Cán cân cơ bản = Cán cân vãng lai + cán cân di chuyển vốn dài hạn . Cán cân tổng thể = Cán cân vãng lai + Cán cân di chuyển vốn + Sai sót . Cán cân bù đắp chính thức = - Cán cân tổng thể 4. Thặng dư hay thâm hụt BOP Khi cán cân thanh toán bội thu, các nước thường sử dụng số bội thu đó để tăng cường đầu tư ra nước ngoài và bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Khi cán cân thanh toán bội chi, do nó có xu hướng tác động tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nên các nước thường áp dụng các biện pháp để điều chỉnh nó. Sử dụng công cụ lãi suất Khi lãi suất tái chiết khấu tăng (và lãi suất của các nước trong khu vực vẫn giữ nguyên) lãi suất chung trên thị trường ngoại hối sẽ tăng, vốn ngắn hạn chạy từ nước ngoài vào trong nước nhờ đó mà cung cầu ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế sẽ được cải thiện Sử dụng công cụ tỷ giá Chính phủ có thể thực hiện phá giá tiền tệ là làm tỷ giá hối đoái tăng lên. Chính sách này tác động trên hai khía cạnh: (i) đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, khuyến khích đầu tư của
  9. nước ngoài vào trong nước nhằm tăng thu ngoại hối, (ii) hạn chế nhập khẩu hàng hóa, hạn chế đầu tư ra nước ngoài làm giảm nhu cầu ngoại hối Vay nợ Vay nợ trước tiên thông qua nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp với các đại lý ngân hàng ở nước ngoài để vay ngoại tệ nhằm bổ sung vào lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường. Sau đó, chính phủ có thể thực hiện các khoản vay song phương từ các chính phủ khác hoặc vay các tổ chức tín dụng quốc tế IV. Các định chế tài chính quốc tế 1. Quỹ tiền tệ thế giới IMF IMF Là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund, viết tắt IMF) chính thức được thành lập vào ngày 27/12/1945 với 29 quốc gia thành viên. IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên vào ngày 8/5/1947. Trụ sở chính đặt tại Washington, D.C. - Hoa Kỳ, IMF là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu, theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Ảnh hưởng của IMF đối với kinh tế toàn cầu ngày càng gia tăng nhờ sự tham gia ngày càng đông của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 188 thành viên, nhiều hơn 6 lần so với số lượng thành viên ban đầu. Nguồn vốn của IMF chủ yếu do các thành viên đóng góp theo cổ phần. Vốn cổ phần được tính bằng quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Right SDR) - đơn vị tính toán tiền tệ của IMF. Hiện thành viên có vốn cổ phần lớn nhất IMF là Mỹ với 42,1 tỷ SDR (khoảng 64 tỷ USD) và thành viên nhỏ nhất là Tuvalu với 1,8 triệu SDR (khoảng 2,7 triệu USD). Các nước có tỉ lệ góp vốn ít tại IMF rất khó tham gia tranh cử chức Tổng giám đốc điều hành cũng như can thiệp vào hoạt động của tổ chức này.
  10. Hội đồng Thống đốc IMF tiến hành rà soát vốn cổ phần tổng thể theo định kỳ, thường là 5 năm/lần. Bất kỳ thay đổi nào trong vốn cổ phần phải được thông qua bởi 85% tổng số quyền biểu quyết. Có hai vấn đề chính được đề cập trong một đợt rà soát vốn cổ phần tổng thể là quy mô của sự gia tăng tổng thể và sự phân bố gia tăng giữa các quốc gia thành viên. IMF với mục tiêu là tạo một quỹ tương trợ tài chính mạnh mẽ, thiết lập duy trì sự ổn định tài chính nhằm cho vay khi có khủng hoảng kinh tế hay một quốc gia có đồng tiền lạm phát. IMF sử dụng quỹ này để cho vay, giúp các quốc gia vượt qua khủng hoảng kinh tế như trường hợp Hàn Quốc, Thái Lan (1998) và gần đây là các nước trong khối EU như Hy Lạp và Bồ Đào Nha. Các quốc gia khi vay tại IMF phải tuân thủ những điều kiện nghiêm ngặt do IMF đặt ra như hạn chế chi tiêu công, thắt lưng buộc bụng IMF không hỗ trợ để phát triển về xã hội, điều này khác với Ngân hàng Thế giới (World Bank) là đặt mục đích giúp những nước nghèo phát triển kinh tế, xã hội 2. Ngân hàng thế giới WB Ngân hàng Thế giới (World Bank) là một tổ chức tài chính quốc tế nơi cung cấp những khoản vay nhằm thúc đẩy kinh tế cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình vay vốn. Ngân hàng Thế giới được thành lập năm tại hội nghị Bretton Woods năm 1944 cùng 3 tổ chức khác trong đó có Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Cả WB và IMF đều có trụ sở tại Washington DC, và có mối quan hệ gần với nhau. Mục tiêu của WB tới năm 2030 . Kết thúc cảnh nghèo đói cùng cực bằng cách giảm tỷ lệ người sống dưới mức 1,25 $ một ngày và tỷ lệ này không quá 3% . Thúc đẩy sự thịnh vượng chung bằng cách thúc đẩy sự tăng trưởng thu nhập của nhóm 40% các nước nghèo nhất
  11. Ngân hàng Thế giới khác với Nhóm Ngân hàng Thế giới, trong đó Ngân hàng Thế giới bao gồm hai cơ quan: Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD) và Hội Phát triển Quốc tế (IDA), trong khi Nhóm Ngân hàng Thế giới còn bao gồm thêm ba cơ quan khác:[2] Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID) và Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA). Mục tiêu hoạt động của IBRD nhằm xóa đói và duy trì sự phát triển bền vững cho các nước đang phát triển có thu nhập đầu người tương đối cao thông qua các khoản vay, bảo lãnh và các dịch vụ nghiên cứu và tư vấn. Lãi suất của các khoản vay được tính theo LIBOR và được điều chỉnh 6 tháng một lần. Thời hạn vay từ 15- 20 năm, có 5 năm ân hạn. IDA chuyên cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các quốc gia nghèo nhất thế giới với mục tiêu nhằm xóa đói giảm nghèo thông qua việc cung cấp các khoản cho vay không có lãi suất (còn gọi là khoản tín dụng) cũng như các khoản viện trợ không hoàn lại cho các chương trình/dự án để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa bỏ bất bình đẳng cũng như cải thiện đời sống. 3. Ngân hàng phát triển châu Á ADB Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) là một thể chế tài chính đa phương cung cấp các khoảng tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giúp các nước châu Á xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội. ADB được thành lập vào năm 1966, có trụ sở chính tại Manila, và chủ tịch là một người Nhật Bản. ADB đề ra các mục tiêu cho hoạt động của mình, bao gồm: bảo vệ môi trường, hỗ trợ giới và phát triển, phát triển khu vực tư nhân, hỗ trợ hợp tác khu vực như sau: . Bảo vệ môi trường: người nghèo ở thường bị buộc phải sống ở những khu vực có điều kiện môi trường bất lợi. Muốn xóa nghèo thì phải bảo vệ môi trường. . Hỗ trợ giới: ở nhiều nước, phần lớn người nghèo là phụ nữ. Hỗ trợ phụ nữ phát triển là một biện pháp xóa nghèo. . Hỗ trợ khu vực tư nhân: khuyến khích cải cách và hoàn thiện môi trường chính sách để tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân, hỗ trợ sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và
  12. khu vực tư nhân, cho vay và hỗ trợ kỹ thuật cho các xí nghiệp tư nhân và thể chế tài chính tư nhân . Khuyến khích hợp tác và liên kết khu vực: khuyến khích sự hợp tác giữa các chính phủ để phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy thương mại và đầu tư,