Giáo trình Lý thuyết tài chính (Phần 1) - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ
Đây là tiền đề mang tính chất khách quan, có ý nghĩa quyết định đối với
sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. Bản thân nền sản xuất hàng hoá
cũng có lịch sử phát sinh và phát triển của nó; từ sản xuất tự cung tự cấp chuyển
sang sản xuất hàng hoá có quá trình chuyển biến lâu dài và đó thật sự là một sự
thay đổi về chất trong hoạt động sản xuất của xã hội loài người. Nhu cầu trao đổi
hàng hoá làm xuất hiện tiền tệ với tư cách là vật ngang giá chung trong quá trình
trao đổi. Cùng với sự xuất hiện của tiền tệ, các hoạt động phân phối diễn ra
trong đời sống kinh tế - xã hội chuyển sang hình thức phân phối bằng giá trị; đó
là hình thức phân phối của tài chính.
Sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ làm xuất hiện các nguồn tài
chính. Nguồn tài chính được hiểu là của cải xã hội, được biểu hiện dưới hình
thức giá trị. Hoạt động phân phối của cải xã hội trước đây được thực hiện dưới
hình thái hiện vật nay chuyển sang thực hiện dưới hình thái giá trị và đó là biểu
hiện hoạt động phân phối của tài chính. Khái niệm về nguồn tài chính gắn liền
với nền sản xuất hàng hoá- tiền tệ và sự xuất hiện của nó làm nảy sinh phạm trù
tài chính.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau trong quá trình phát triển của
xã hội loài người, nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ không ngừng phát triển. Các
mối quan hệ trong đời sống kinh tế - xã hội cũng ngày càng trở nên đa dạng và
phức tạp hơn; chính điều đó đã làm cho các quan hệ tài chính càng trở nên đa
dạng, phong phú hơn, hoạt động tài chính có bước phát triển cao hơn. Cũng cần
thấy rằng chính sự phát triển của tài chính đã góp phần tích cực vào sự thúc đẩy
các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển. Đây là những mối quan hệ biện chứng,
không ngừng tác động lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau trong suốt quá trình phát
sinh và phát triển của tài chính.
Đây là tiền đề mang tính chất khách quan, có ý nghĩa quyết định đối với
sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. Bản thân nền sản xuất hàng hoá
cũng có lịch sử phát sinh và phát triển của nó; từ sản xuất tự cung tự cấp chuyển
sang sản xuất hàng hoá có quá trình chuyển biến lâu dài và đó thật sự là một sự
thay đổi về chất trong hoạt động sản xuất của xã hội loài người. Nhu cầu trao đổi
hàng hoá làm xuất hiện tiền tệ với tư cách là vật ngang giá chung trong quá trình
trao đổi. Cùng với sự xuất hiện của tiền tệ, các hoạt động phân phối diễn ra
trong đời sống kinh tế - xã hội chuyển sang hình thức phân phối bằng giá trị; đó
là hình thức phân phối của tài chính.
Sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ làm xuất hiện các nguồn tài
chính. Nguồn tài chính được hiểu là của cải xã hội, được biểu hiện dưới hình
thức giá trị. Hoạt động phân phối của cải xã hội trước đây được thực hiện dưới
hình thái hiện vật nay chuyển sang thực hiện dưới hình thái giá trị và đó là biểu
hiện hoạt động phân phối của tài chính. Khái niệm về nguồn tài chính gắn liền
với nền sản xuất hàng hoá- tiền tệ và sự xuất hiện của nó làm nảy sinh phạm trù
tài chính.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau trong quá trình phát triển của
xã hội loài người, nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ không ngừng phát triển. Các
mối quan hệ trong đời sống kinh tế - xã hội cũng ngày càng trở nên đa dạng và
phức tạp hơn; chính điều đó đã làm cho các quan hệ tài chính càng trở nên đa
dạng, phong phú hơn, hoạt động tài chính có bước phát triển cao hơn. Cũng cần
thấy rằng chính sự phát triển của tài chính đã góp phần tích cực vào sự thúc đẩy
các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển. Đây là những mối quan hệ biện chứng,
không ngừng tác động lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau trong suốt quá trình phát
sinh và phát triển của tài chính.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý thuyết tài chính (Phần 1) - Trường Cao đẳng nghề Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_thuyet_tai_chinh_phan_1_truong_cao_dang_nghe_n.pdf
Nội dung text: Giáo trình Lý thuyết tài chính (Phần 1) - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, có nhiều hình thức và nhiều quỹ tiền tệ khác nhau, nhưng tính chất chung và đặc biệt của các quỹ bảo hiểm là được tạo lập và sử dụng để bồi thường tổn thất nhiều dạng cho những chủ thể tham gia bảo hiểm tuỳ theo mục đích của quỹ Có hai hình thức bảo hiểm là: Bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm y tế. Bảo hiểm kinh doanh bao gồm bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Quỹ bảo hiểm kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của những người(pháp nhân hay thể nhân) tham gia bảo hiểm và chủ yếu được sử dụng để bồi thường tổn thất cho họ khi họ gặp rủi ro bất ngờ, bị thiệt hại vật chất theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Các quỹ bảo hiểm kinh doanh được tạo lập và sử dụng có tính chất thương mại, vì mục đích kinh doanh lấy lợi nhuận. Bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Bảo hiểm xã hội được hình thành từ nguồn đóng góp của đơn vị sử dụng lao động và người lao động tính theo một tỷ lệ (%) nhất định trên tiền lương thực tế của người lao động trong các đơn vị đó và được sử dụng để trợ cấp (bồi thường) cho người lao động khi họ bị mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn, trợ cấp về khám chữa bệnh. Các quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành và sử dụng không vì mục đích kinh doanh lấy lãi mà mang tính chất xã hội. 2.4. Tín dụng Tín dụng là một dịch vụ tài chính đặc biệt gắn liền với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ thông qua việc thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi để cho vay, đáp ứng các nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế – xã hội theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Tín dụng là một khâu trung gian quan trọng trong hệ thống tài chính Tín dụng có nhiệm vụ sau: Một là, tạo lập quỹ tín dung thông qua động viên thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội theo nguyên tắc hoàn trả và có lợi tức. Hai là, sử dụng các quỹ tín dụng đã tạo lập đáp ứng nhu cầu về vốn tạm thời cho các chủ thể trong xã hội theo nguyên tắc hoàn trả và có lợi tức. 2.5. Tài chính các tổ chức xã hội Các tổ chức xã hội là khái niệm chung để chỉ các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp Các tổ chức này còn được gọi là các tổ chức phi chính phủ. Nhiệm vụ của tài chính các tổ chức xã hội: Tæ bé m«n kÕ to¸n 11 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh Một là, tạo lập quỹ tiền tệ thông qua sự đóng góp hội phí, quyên góp, ủng hộ của các thành viên trong, ngoài nước và của các cá nhân, tổ chức xã hội khác. Hai là, các quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội chủ yếu được sử dụng cho mục đích tiêu ding trong hoạt động của các tổ chức đó. Khi các quỹ chưa được sử dụng, số dư ổn định của chúng có thể tham gia thị trường tài chính thông qua các quỹ tín dụng hoặc các hình thức khác ( mua tín phiếu, trái phiếu ) 2.6. Tài chính hộ gia đình (dân cư) Trong dân cư (các hộ gia đình) các quỹ tiền tệ được hình thành từ tiền lương, tiền công, thu nhập của các thành viên trong gia đình do lao động hay sản xuất kinh doanh; từ nguồn thừa kế tài sản; từ nguồn biếu tặng lẫn nhau trong quan hệ gia đình hay quan hệ xã hội ở trong và ngoài nước; từ các nguồn khác nhau như: lãi tiền gửi ngân hàng, lợi tức từ những khoản góp vốn, mua trái phiếu, cổ phiếu Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình chủ yếu được sử dụng cho mục đích tiêu dùng của gia đình. Nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các hộ gia đình cũng có thể được sử dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ gia đình hoặc tham gia vào thị trường tài chính qua việc góp cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu Như đã chỉ ra ở phần trên, trong điều kiện kinh tế thị trường, các khâu của hệ thống tài chính vừa có quan hệ trực tiếp với nhau, vừa có quan hệ với nhau thông qua thị trường tài chính. Câu hỏi ôn tập chương I 1. Tài chính là gì? Trình bày các tiền đề quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. 2. Phân tích bản chất, chức năng của tài chính? Trình bày mối quan hệ giữa các chức năng đó. 3. Phân biệt tài chính và các phạm trù giá trị khác như: tiền tệ, giá cả, thương mại, tiền lương 4. Hệ thống tài chính có những khâu nào? Các khâu của hệ thống tài chính quan hệ với nhau như thế nào? Cho ví dụ minh họa. 5. Vai trò của hệ thống tài chính trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam. Tæ bé m«n kÕ to¸n 12 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh CHƯƠNG II NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. Khái niệm ngân sách nhà nước NSNN đã có quá trình ra đời và phát triển từ thế kỷ XII đến nay. Thế nhưng hiện nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm NSNN, phổ biến là: Thứ nhất, NSNN là bản dự toán thu - chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Thứ hai, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước. Thứ ba, NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau. Ngoài ra, Điều 1 Luật NSNN đã được Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/03/1996 có ghi: NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Từ các quan điểm trên, ta có thể xác định: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính Quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. 2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước NSNN là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. NSNN bao gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính của quốc gia. NSNN có đặc điểm sau: - Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn với quyền lực của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. - NSNN luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng, lợi ích toàn thể được đặt lên hàng đầu và chi phối các lợi ích khác. - NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước là nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới được chi dùng cho những mục đích nhất định đã được định trước. - Hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn Tæ bé m«n kÕ to¸n 13 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh trả trực tiếp là chủ yếu. 3. Vai trò của ngân sách nhà nước NSNN có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Có thể xem xét vai trò của NSNN trên một số lĩnh vực điều tiết sau đây: 3.1. NSNN là công cụ định hướng phát triển sản xuất (về kinh tế) Thông qua các khoản chi kinh tế và chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, phát triển những ngành, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao, ưu tiên các ngành mũi nhọn Chính phủ có thể tạo điều kiện và hướng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào những lĩnh vực, những vùng cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế mới. Thông qua thu ngân sách mà chủ yếu là thuế cũng góp phần định hướng phát triển sản xuất. Việc đặt ra các loại thuế với thuế suất ưu đãi, các quy định miễn, giảm thuế có tác dụng kích thích mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp. Một chính sách thuế có lợi sẽ thu hút được doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết, ngược lại, một chính sách thuế khắt khe sẽ giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi cần hạn chế sản xuất kinh doanh. 3.2. NSNN là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát.(về thị trường) Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cung cầu chi phối thị trường rất mạnh mẽ. Mọi sự biến động của gía cả đều do mất cân đối cung cầu. Vì vậy, Chính phủ cần có sự tác động tích cực đến thị trường nhằm đảm bảo lợi ích cho cả người sản xuất và người tiêu dùng, cũng như để giữ vững cơ cấu kinh tế đã được hoạch định - Đối với thị trường hàng hoá, hoạt động điều tiết của Chính phủ được thực hiện thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ của Nhà nước (bằng tiền, bằng ngoại tệ, các loại hàng hoá, vật tư, chiến lược ) được hình thành từ nguồn thu của NSNN - Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động hoạt động điều tiết của Chính phủ thông qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả trong đó công cụ ngân sách với các biện pháp như phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp chi tiêu dùng của Chính phủ cho toàn xã hội, đào tạo Kiềm chế lạm phát luôn được coi là mục tiêu trọng yếu trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế – xã hội của quốc gia. NSNN được sử dụng như một công cụ có hiệu lực để kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Khi xảy ra lạm phát, giá cả tăng lên do cung cầu mất cân đối (cung nhỏ hơn cầu), Chính phủ có thể sử dụng biện pháp thuế như tăng thuế tiêu Tæ bé m«n kÕ to¸n 14 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh dùng, giảm thuế đối với đầu tư và thắt chặt chi tiêu của NSNN, nhất là các khoản thu cho tiêu dùng. Ngoài ra để kiềm chế lạm phát, Nhà nước có thể tăng cường các khoản vay trong dân, góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh tế, triệt để không phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách 3.3. Ngân sách là công cụ có hiệu lực của Nhà nước để điều chỉnh trong lĩnh vực thu nhập, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách ngân sách, cụ thể là chính sách thuế và chính sách chi ngân sách góp phần làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về thu nhập và tiền lương của các tầng lớp dân cư trong phạm vi cả nước. Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết những đối tượng có thu nhập cao để phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới đảm bảo công bằng xã hội về thu nhập. Đối với các loại thuế gián thu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT ) Nhà nước áp dụng mức thuế suất thấp nhất đối với các loại hàng hoá tiêu dùng thiết yếu và mức thuế suất cao đối với các loại hàng hoá xa xỉ, các loại dịch vụ cao cấp nhằm phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giầu trong xã hội. Để điều chỉnh thu nhập, bên cạnh công cụ thuế nói trên, Chính phủ còn rất quan tâm đến chính sách chi ngân sách. NSNN như một trung tâm phân phối lại, nhằm chuyển bớt một phần thu nhập từ các tầng lớp giàu có sang tầng lớp những người nghèo và Nhà nước cũng là người thay mặt xã hội thực hiện nghĩa vụ đối với các đối tượng gia đình liệt sỹ, thương binh, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa Các khoản chi phí cho mục tiêu phúc lợi xã hội, trợ cấp người nghèo cần được bố trí với chiều hướng tăng lên. Ngoài ba vai trò trên, NSNN còn có vai trò củng cố, tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước, bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh; vai trò kiểm tra các hoạt động tài chính khác trong việc làm nghĩa vụ nộp thuế, các khoản phải nộp, trong việc sử dụng các tài sản quốc gia và thực hiện các pháp luật, chính sách về ngân sách và các pháp luật, chính sách khác có liên quan. II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. Thu ngân sách nhà nước. 1.1.Khái niệm, đặc điểm của thu NSNN * Khái niệm: Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thoả mãn các nhu cầu của Nhà nước * Đặc điểm của thu NSNN Tæ bé m«n kÕ to¸n 15 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh - Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. - Thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. - Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như: giá cả, lãi suất, thu nhập 1.2. Nội dung kinh tế của thu NSNN Thu NSNN bao gồm: - Thuế, lệ phí, phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật. - Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước như: + Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế. + Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế. + Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) - Thu từ các hoạt động sự ngiệp. - Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. - Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước. - Thu khác: thu từ tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản. Căn cứ vào nội dung kinh tế và tính chất của các khoản thu NSNN có thể chia NSNN thành hai nhóm: - Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc gồm thuế, phí, lệ phí. - Nhóm thu không thường xuyên bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các khoản thu khác đã nêu ở trên. Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN có thể chia các khoản thu NSNN thành: - Thu trong cân đối NSNN : bao gồm các khoản thu thường xuyên và không thường xuyên . - Thu bù đắp thiếu hụt NSNN : khi số thu không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu và Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong và ngoài nước 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là xác định mức động viên Tæ bé m«n kÕ to¸n 16 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh và lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN là: - Thu nhập GDP bình quân đầu người. Chỉ tiêu GDP bình quân đầu người phản ánh mức độ tăng trưởng và phát triển của một quốc gia, khả năng tiết kiệm và đầu tư của một nước. Đây là nhân tố quyết định khách quan đến mức động viên của NSNN. Nừu bỏ qua chỉ tiêu này khi xác định mức động viên của NSNN sẽ có tác động tiêu cực đến vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của đông đảo các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế. - Tỷ suất lợi nhuận trong kinh tế. Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của chi đầu tư phát triển kinh tế. Nếu chỉ tiêu này càng lớn thì nguồn tài chính tạo ra càng lớn và ngược lại. Do đó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định tỷ suất thu NSNN cũng như khả năng động viên vào NSNN. - Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên. Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú thì nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến số thu NSNN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu NSNN sẽ cao và có khả năng tăng nhanh. Ở nước ta trong tương lai, việc xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Đó là nhân tố quan trọng ảnh hưởng to lớn đến việc nâng cao tỷ suất thu NSNN. - Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước. Nhân tố này phụ thuộc vào: + Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó. + Những nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ. + Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước. Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước không có khả năng tăng lên thì việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ dẫn đến tăng tỷ suất thu NSNN. - Tổ chức bộ máy thu nộp. Việc tổ chức bộ máy thu nộp có ảnh hưởng trực tiếp đến thu NSNN. Nừu bộ máy thu nộp được tổ chức gọn nhẹ và có hiệu quả cao sẽ góp phần tích cực vào việc tăng thu NSNN và ngược lại. 1.4. Nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN. Trong cơ cấu các nguồn thu của NSNN, thuế luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn Tæ bé m«n kÕ to¸n 17 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh nhất, đó là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Nội dung cơ bản của việc xây dựng hệ thống thu NSNN trước hết và trực tiếp là xây dựng hệ thống thuế tiên tiến, tích cực; vừa đáp ứng yêu cầu động viên cho NSNN, vừa phát huy vai trò điều tiết các hoạt động kinh tế – xã hội theo định hướng chiến lược của Nhà nước. Do đó việc thiết lập hệ thống thuế phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc ổn định và lâu dài. Nguyên tắc này yêu cầu trong điều kiện kinh tế hoạt động bình thường phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây xáo trộn lớn trong hệ thống thuế. Ổn định và lâu dài, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hóa ngân sách, mặt khác tạo điều kiện để kích thích sản xuất yên tâm phát triển sản xuất. - Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng. Nguyên tắc này đòi hỏi việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi đối tượng nộp, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế. Việc thiết lập hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế. Tôn trọng nguyên tắc công bằng có tác dụng phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, hạn chế sự phân hóa ranh giới kẻ giàu, người nghèo trong xã hội. - Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn. Nguyên tắc này yêu cầu các chính sách thuế được quy định trong luật phải thể hiện đầy đủ các tiêu thức (đối tượng nộp, đối tượng tính, mức thu, thủ tục nộp ) một cách cụ thể, rành mạch. Tôn trọng nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn sẽ đảm bảo tính thống nhất của hệ thống thu ngân sách trong việc áp dụng chung cho các nước; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tổ chức thu NSNN và hạn chế những thất thoát, tiêu cực có thể xảy ra. - Nguyên tắc đơn giản Yêu cầu của nguyên tắc này là mỗi chính sách thuế cần hạn chế số lượng các mức thu, xác định rõ mục tiêu chính không nên đề ra quá nhiều mục tiêu trong một chính sách thu ngân sách. Đảm bảo yêu cầu trên cho phép xác định chính sách thuế đơn giản, dễ áp dụng nhưng giảm thiểu được tính chủ quan trong công tác tổ chức quản lý thu ngân sách. - Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế. Tæ bé m«n kÕ to¸n 18 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh
- Gi¸o tr×nh Lý thuyÕt tµi chÝnh Trong điều kiện hiện nay, với xu thế hội nhập và toàn cầu, việc thiết lập hệ thống thuế còn phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế về đối tượng thu, phương thức thu nộp Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. 1.5. Các giải pháp tăng thu ngân sách Nhà nước Muốn tăng trưởng nền kinh tế phải có số vốn lớn và phải huy động tối đa các nguồn tài chính để dùng vào đầu tư phát triển kinh tế. Bồi dưỡng nguồn thu nói chung, nguồn thu NSNN nói riêng, có tầm quan trọng quyết định. Những quan điểm định hướng: - Phải chú trọng kết hợp tốt việc khai thác, huy động các nguồn tài chính vào NSNN với việc bồi dưỡng phát triển các nguồn tài chính. - Phải coi nâng cao năng suất lao động xã hội, của từng doanh nghiệp và tiết kiệm là con đường cơ bản để tạo vốn, để tăng thu NSNN. Trên cơ sở các quan điểm định hướng đó, cần có các giải pháp tích cực để bồi dưỡng nguồn thu NSNN. Một là: Nhà nước, trong khi khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc gia tăng thu cho ngân sách, cần phải dành kinh phí thỏa đáng để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt. Hai là: Chính sách thuế vừa phải huy động được cho Nhà nước, vừa khuyến khích tích tụ vốn của doanh nghiệp và dân cư. Vì vậy, cần phải ổn định mức huy động bằng thuế của Nhà nước và phải sửa đổi, bổ sung chính sách thuế cho phù hợp với thu nhập của các doanh nghiệp và của dân cư. Ba là: Chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt NSNN cần được đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân. Tiết kiệm trong dân cư phải có mức độ nhất định. Nếu Nhà nước vay quá lớn, dân sẽ không cải thiện được mức sống, không còn khả năng tự đầu tư để phát triển, giải quyết các vấn đề mà Nhà nước chưa giải quyết được như: thu nhập, việc làm, đồng thời tạo ra nguồn tài chính mới. Bốn là: Nhà nước dùng vốn NSNN đầu tư trực tiếp vào một só doanh nghiệp quan trọng trên những ngành, lĩnh vực then chốt để thực hiện định hướng phát triển kinh tế – xã hội và tạo ra nguồn tài chính mới. Đồng thời, Nhà nước phải chú trọng đầu tư vào con người, đào tạo nghề, nâng cao dân trí, phát triển khoa học, chăm lo sức khỏe để có một đội ngũ lao động có tay nghề cao và năng suất lao động cao. Năm là: Cần phải ban hành chính sách tiêt kiệm, khuyến khích mọi người tiết kiệm tiêu dùng, dành vốn cho đầu tư phát triển. Nhà nước phải giảm chi tiêu cho tiêu dùng, tinh giản bộ máy Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính để tích lũy vốn chi đầu tư. Tæ bé m«n kÕ to¸n 19 Trêng Cao §¼ng nghÒ Nam §Þnh