Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát

Nội dung
• Phân tích khái niệm lạm phát và thất nghiệp
• Phân tích các tác động của lạm phát và thất
nghiệp đến nền kinh tế
• Chỉ ra các giải pháp nhằm kiềm chế mức
lạm phát và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ở Việt
Nam hiện nay
• Bổ sung: Mối quan hệ giữa lạm phát và thất
nghiệp (đường Phillips, và các nhân tố làm
dịch chuyển và di chuyển đường Phillips)


 

pdf 38 trang hoanghoa 07/11/2022 10760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_7_that_nghiep_va_lam_phat.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát

  1. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích của việc tìm cơ hội thu nhập khác. 7.1.3.2. Ảnh hưởng của thất nghiệp tới xã hội và nền kinh tế Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất nghiệp có nghĩa là sản xuất ít hơn, giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô. Đối với xã hội: • Có thể đương đầu với các tệ nạn xã hội do người thất nghiệp gây ra. • Chi nhiều tiền hơn để giải quyết hậu quả từ phía thất nghiệp như y tế, trật tự an ninh trong xã hội,.v.v. • Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu Đào tạo nghề tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn. 7.1.4. Các giải pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp Giải pháp của thị trường để giải quyết thất nghiệp theo mùa và thất nghiệp do thay đổi công việc bao gồm việc tìm việc tư nhân, quảng cáo của các doanh nghiệp cũng như người tìm việc, và các trung tâm tìm việc tư nhân. 7.1.4.1. Tạo ra công ăn việc làm mới Có công ăn việc làm là một nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội, nhất là đối với những người trong độ tuổi lao động. Do đó, tạo ra công ăn việc làm Tạo công ăn việc làm đáp ứng “đủ” nhu cầu tham gia lao động của các thành viên trong xã hội là cần thiết để có thể có được một xã hội ổn định và phát triển. Đây trước hết là trách nhiệm của Chính phủ các quốc gia, xét về phương diện quản lý vĩ mô, thực hiện thông qua việc hoạch định các chính sách và hệ thống luật pháp có liên quan. Thứ đến, cũng cần đến tinh thần trách nhiệm của các thành viên trong xã hội, cụ thể là các nhà đầu tư và các doanh nghiệp, xét trên bình diện tham gia sản xuất kinh doanh. Thật vậy, chính việc mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, công cũng như tư, mà xã hội có thêm một số việc làm tương ứng. Đóng góp này, nếu nhìn riêng lẻ thì không thấy quan trọng mấy, vì mỗi doanh nghiệp chỉ tạo ra được một số việc làm, tùy theo ngành nghề và qui mô đầu tư Tác động của thất nghiệp tới xã hội của doanh nghiệp, nhưng nếu cộng tất cả lại trong 183
  2. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát phạm vi toàn nền kinh tế thì thật đáng kể. Nói theo cách đảo ngược thì nếu trừ đi các đóng góp loại này của từng doanh nghiệp, cho dù các doanh nghiệp với qui mô nhỏ và rất nhỏ, xã hội sẽ mất đi một số việc làm tương ứng và con số thất nghiệp dôi ra từ đây đáng phải kể đến. Và, nếu điều này xảy ra đồng loạt ở nhiều doanh nghiệp – như trong trườ ng hợp hàng loạt công ty, xí nghiệp ở Nhật phá sản do biến động tiền tệ vào những năm đầu thập niên 1990, với hàng ngày có đến khoảng 6.000 doanh nghiệp tuyên bố phá sản (theo các bản tin thời sự vào thời kỳ đó) thì con số người thất nghiệp sẽ tăng vọt gây ảnh hưởng đáng kể tới nền kinh tế nói chung, nếu tình trạng này kéo dài. Nếu mỗi công việc làm thường đòi h ỏi một trình độ tay nghề hoặc trình độ văn hóa tương ứng, một vấn đề khác đặt ra là liệu những người muốn tham gia lao động có đáp ứng được yêu cầu này không? Nói cách khác, cần phải có một hệ thống đào tạo phù hợp và một tinh thần tự đào tạo tốt. 7.1.4.2. Đào tạo và tự đào tạo nghề nghiệp Đào tạo là “quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp, chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước”. Để có một nghề, người ta, nhhất là n ững người thuộc thế hệ trẻ, cần phải trải qua thời kỳ đào tạo cần thiết. Đặc biệt ngày nay, trong bối cảnh những thành tựu khoa học kỹ thuật được phát minh và ứng dụng hầu như tức thì vào sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh được tổ chức theo những qui trình chặt chẽ và khoa học, thì việc học cho thành thạo một nghề và, hơn nữa, nắm vững được mối liên hệ giữa các ngành nghề cũng như giữa các khâu khác nhau trong các qui trình sản xuất là điều thật sự cần thiết để một con người hội đủ khả năng tham gia lao động góp phần xây dựng xã hội. Ngoài ra, trong khi đang tham gia hoạt động sản xuất, mỗi người lao động cũng cần phải tự trau dồi và nâng cao tay nghề sao cho phù hợp và đáp ứng được vớ i trình độ sản Vấn đề hướng nghiệp xuất luôn được nâng cao trong xã hội. Điều này sẽ đảm bảo cho người đó không bị tụt hậu hoặc bị thải loại vì lý do trình độ nghề nghiệp. Ví dụ, trong lĩnh vực tin học, một lĩnh vực mới nhưng cũng thay đổi rất nhanh trong việc phát minh và ứng dụng những kiến thức mới, chỉ cần “dậm chân tại chỗ” trong một thời gian ngắn, không lo tự học hỏi thêm, tự cập nhật hóa kiến thức của mình, thì một kỹ thuật viên hoặc lập trình viên, cho dù có chuyên môn khá cao, cũng sẽ trở thành người tụt hậu không theo kịp các đồng nghiệp và bị đào thải bởi thị trường. Đào tạo và tự đào tạo có vai trò quan trọng và cần thiết, nhưng phải đào tạo nghề nào, đào tạo cho ai? Đấy lại là một vấ n đề khác cũng cần quan tâm, vấn đề hướng nghiệp. 7.1.4.3. Vấn đề hướng nghiệp Chọn đúng nghề, làm việc đúng khả năng là điều quan trọng cần phải lưu ý ngay từ trong chương trình giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Thật vậy, một người khó có thể trở thành chuyên nghiệp hay tinh thông một nghề nếu nghề đó không phù hợp với cá tính, tâm lý, thể lý và sở thích của mình. Trong trường hợp đó, việc hành nghề không đem lại cho bản thân người đó sự phấn khởi và niềm hạnh phúc, có chăng chỉ là khả năng thích ứng hoặc nỗ lực làm việc của bản thân để hoàn thành công việc được giao. Điều này làm cho hiệu quả do việc hành nghề của người đó mang lại không thể đạt tới mức tối đa. Ví dụ một người có cá 184
  3. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát tính trầm lặng sẽ không thể nào thích hợp được với một nghề đòi hỏi sự bao quát và tính hoạt bát, như nghề quản trị chẳng hạn. Với tính cách ít nói và thích lặng lẽ làm việc, người loại này sẽ thích hợp hơn nhiều cho một công việc của phòng thí nghiệm (dĩ nhiên, còn phải tính đến nhiều yếu tố chuyên môn khác nữa), vốn là loại công việc đòi sự kiên trì tự giam mình lâu giờ trong phòng nghiên cứu v ới những thí nghiệm lặp đi lặp lại để theo dõi quan sát. Với cá tính như vậy, người loại này mới cảm thấy niềm vui trong loại công việc mà những người hiếu động khó có thể hoàn thành cách xuất sắc. Ngày nay, ta thường nghe nói nhiều đến các loại chuyên nghiệp trong thể thao như cầu thủ chuyên nghiệp, cây vợt chuyên nghiệp, tay đua chuyên nghiệp, Những người theo các loại “nghiệp” này là những người vốn say mê và cảm thấ y hạnh phúc khi làm những công việc đó, đến nỗi những hoạt động ấy trở thành “lẽ sống” của họ (đương nhiên, từ chuyên nghiệp ở đây còn diễn tả rằng những người này làm công việc đó vì tiền, để kiếm sống). Chính nhờ sự chuyên nghiệp và với năng khiếu trời phú đặc biệt, họ mới thực hiện được những thao tác thật nhuần nhuyễ n và điêu luyện mà những người khác không thể làm được cho dù có tập luyện nhiều đi nữa. Việc định hướng nghề nghiệp cho con người nói chung, và nhất là người trẻ sắp vào đời nói riêng, là điều cần thiết và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Nếu thực hiện tốt khâu này, người ta có thể tận dụng được hết khả năng và năng khiếu trời cho của từng thành viên trong xã hội phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung. Có việc làm, có người lành nghề được đào tạo hoàn chỉnh và biết tự đào tạo tốt là một trong những điều kiện nền tảng cho xã hội phát triển. Nhưng trên góc độ luân lý xã hội, người ta còn được kêu gọi và yêu cầu hành nghề có đạo đức và theo lương tâm nghề nghiệp nữa. 7.1.5. Vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam Ngày nay, ở Việt Nam và nhất là tại các thành phố lớn, nhu cầu tìm việc làm rất lớn. Nhìn vào bảng số liệu về tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị phân theo vùng giai đoạn 1996 – 2005 cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực Đồng bằng Sông Hồng và khu vực Đông Nam Bộ thường chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là hai thành phố Hà Nội và H ồ Chí Minh có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất hàng năm. Bảng 7.2: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị phân theo vùng Sơ bộ 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Cả nước 5.88 6.01 6.85 6.74 6.42 6.28 6.01 5.78 5.60 5.31 4.82 4.64 Đồng bằng sông Hồng 7.57 7.56 8.25 8.00 7.34 7.07 6.64 6.38 6.03 5.61 6.42 5.74 Đông Bắc 6.34 6.60 6.95 6.49 6.73 6.10 5.93 5.45 5.12 4.32 3.97 Tây Bắc 6.42 4.73 5.92 5.87 6.02 5.62 5.11 5.19 5.30 4.91 3.89 3.42 Bắc Trung Bộ 6.96 6.68 7.26 7.15 6.87 6.72 5.82 5.45 5.35 4.98 5.50 4.92 Duyên hải Nam Trung Bộ 5.57 5.42 6.67 6.55 6.31 6.16 5.50 5.46 5.70 5.52 5.36 4.99 Tây Nguyên 4.24 4.99 5.88 5.40 5.16 5.55 4.90 4.39 4.53 4.23 2.38 2.11 Đông Nam Bộ 5.43 5.89 6.44 6.33 6.16 5.92 6.30 6.08 5.92 5.62 5.47 4.83 Đồng bằng sông Cửu Long 4.73 4.72 6.35 6.40 6.15 6.08 5.50 5.26 5.03 4.87 4.52 4.03 Hà Nội 7.71 8.56 9.09 8.96 7.95 7.39 7.08 6.84 Đà Nẵng 5.53 5.42 6.35 6.04 5.95 5.54 5.30 5.16 TP. Hồ Chí Minh 5.68 6.13 6.76 6.88 6.48 6.04 6.73 6.58 Đồng Nai 4.61 4.03 5.52 5.65 4.75 514 5.27 4.86 Nguồn: Tổng cục Thống kê 185
  4. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát Tỷ lệ thất nghiệp thường tập trung ở lứa tuổi thanh niên. Tính đến năm 2000 số người trong độ tuổi thất nghiệp là 1,45 triệu người, trong đó khu vực thành thị 692 nghìn người, khu vực nông thôn là 755 nghìn người, chủ yếu là trong độ tuổi thanh niên và con số này còn cao hơn trong năm 2003. Tuy nhiên chưa bao giờ sức ép về việc làm trong xã hội ta, đặc biệt là việc làm cho giới trẻ lại thu hút sự quan tâm của nhiều cấp nhiều ngành và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh như hiện nay. Thanh niên chiếm 30% dân số cả nước, tương đương với 55,5% lực lượng lao động toàn quốc, hàng năm có hàng triệu thanh niên đến tuổi lao động cần có việc làm. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã giảm nhưng số người thất nghiệp vẫn tiếp tục tăng. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn ở mức 8,2% và đang có xu hướ ng tăng lên. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho rằng vấn đề cấp thiết đặt ra là đến năm 2005 phải tạo việc làm mới và ổn định việc làm cho 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm; Tăng tỷ trọng lao động trong sản xuất công nghiệp và xây dựng lên 20 – 21%, lao động trong các ngành dịch vụ lên 22 – 23%/năm, giảm lao động nông nghiệp xuống còn 56 – 57%. Để giải quyết vấn đề việc làm cho thanh niên, nên xem xét một số giải pháp sau đây: • Thứ nhất, tạo việc làm cho thanh niên từ khu vực nông nghiệp. Thường thì khi nói đến vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên người ta hay đặt nhiều hy vọng vào khu vực công nghiệp và dịch vụ. Nhưng ở đây xuất phát từ đặc thù của một nước nông nghiệp thì khu vực nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng. Chiến lược thanh niên đưa ra chỉ tiêu "tăng tỷ lệ thời gian lao động trong năm của thanh Vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam niên khu vực nông thôn lên 85% vào năm 2010”. Điều này tưởng chừng nh ư mâu thuẫn vì chúng ta đang phấn đấu giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp. Nhưng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp không có nghĩa là thoát ly nông nghiệp. Như chúng ta đã biết, gần 80% dân số nước ta sống bằng nông nghiệp. Vì vậy tìm việc làm từ nông nghiệp là một việc làm hết sức tự nhiên và cần thiết.Tuy nhiên giải quyết việc làm ở đây phải đi theo hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị sản xuất trên một ha đất. Cả nước ta hiện có trên 9,3 triệu ha đất nông nghiệp. Giá trị sản lượng nông nghiệp của chúng ta khoảng 9 tỷ USD/năm, bình quân 1000 USD/ha. Trong khi đó Đài Loan chỉ có hơn 900 ngàn ha đất nông nghiệp mà giá trị sản lượng tới 14 tỷ USD/năm, giá trị tạo ra từ 1 ha đất nông nghiệp của bạn gấp 15 lần ở nước ta. Vì vậy, điều cần thiết ở khu vực nông nghiệp hiện nay là phải tạo ra được một lực lượng lao động có kiến thức, có tri thức khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học mà theo chúng tôi, không ai khác ngoài lực lượng lao động trẻ Đất đai nông nghiệp phải đảm đương trọng trách. Muốn giải quyết việc làm ở khu vực này, cần hướng nghiệp cho thanh niên học sinh đi vào các ngành nghề nông lâm ngư nghiệp, chế biến, sinh hoá thự c phẩm và có kế hoạch trở về phục vụ nông nghiệp, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Như vậy vừa giãn được sức ép về việc làm ở khu vực thành thị, khắc phục tình trạng sinh viên sau khi tốt nghiệp dồn về các thành phố lớn làm việc, vừa tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực nông nghiệp nông thôn đang cần tri thức khoa học công nghệ trên con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Đất đai nông nghiệp cũng là nơi có thể giải quyết việc làm tại chỗ cho thanh niên bằng cách khuyến khích những người trẻ mở mang 186
  5. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát các trang trại, lâm trại, ngư trại, tạo các ngành nghề như nuôi trồng thuỷ hải sản, trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, trồng cây ăn quả, nấm, và các loại cây trồng khác. • Thứ hai, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ hợp hợp tác xã tư nhân phát triển, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động trẻ. Mười năm qua, kinh tế tư nhân tăng cả về số lượng, vốn kinh doanh và lao động, tạo ra 40% GDP cho cả nước. Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn, phát triển rộng rãi từ nhiều năm nay. Năm 2000 cả nước có gần 10.000.000 hộ kinh doanh cá thể, hàng ngàn hợp tác xã, v.v với việc đa dạng ngành nghề sản xuất cũng tạo được hàng triệu việc làm cho nhân dân, trong đó đối tượng thanh niên chiếm số đông, những mô hình này cần nhân rộng hơn nữa trong tương lai. Do đó, bên cạnh các hoạt động xã hội Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên cũng nên tổ chức các hợp tác xã thanh niên như HTX nuôi bò giống ở tỉnh Đồng Tháp mới đây góp phần nhân giống cây con có chất lượng cao và tạo ra việc làm tại chỗ cho lực lượng thanh niên. • Thứ ba, giải quyết việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề mũi nhọn. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2010 thu hút thêm 4,8 – 5 triệu lao động trẻ vào khu vực công nghiệp, xây dựng; 2,8 – 3 triệu lao động trẻ vào khu vực dịch vụ như chiến lược thanh niên đã đề ra thì Nhà nước phải tìm mọi cách thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực công nghiệp. Chú trọng mở mang các ngành dịch vụ, trong đó có du lịch và thương mại là 2 ngành luôn có thế mạnh và ít kén chọn nhân công. Còn đối với khu vực công nghiệp thì ngành Giáo dục Đ ào tạo và Dạy nghề phải có đối sách cung ứng đầy đủ số lao động có tay nghề, được dạy nghề để đáp ứng yêu cầu, khuyến khích thanh niên học nghề để tìm việc làm tại các khu công nghiệp tập trung. Tránh tình trạng có việc làm nhưng thiếu nhân công có tay nghề cao như ở Bình Dương, Đồng Nai, Dung Quất, v.v thời gian qua. • Thứ tư, giải quyết việc làm thông qua xuất khẩu lao động. Để đạt mục tiêu xuất khẩu 0,8 đến 1 triệu lao động và chuyên gia trẻ, Nhà nước phải có kế hoạch mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia, tạo ra nhiều công ty, trung tâm giới thiệu cung ứng xuất khẩu lao động có tín nhiệm, tránh xảy ra tình trạng lừa đảo, nâng giá dịch vụ lao động và thiếu thông tin về thị trường lao động cho thanh niên, đặc biệt là thanh niên khu vực nông thôn. Và cũng cần có kế hoạch hướng dẫn những kiến thức cần thiết cho người đi lao động nước ngoài để họ có thể nhanh chóng được nhập cuộc, tự tin khi đến lao động tại nước bạn, tạo nên chất lượng nhân công cao, bình đẳng với các nước có lao động xuất khẩu trong khu vực. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có các cam kết với các nước nhập khẩu lao động những quy ước về quyền và trách nhiệm củ a người lao động, về các chính sách bảo vệ nhân phẩm của người lao động Việt Nam ở nước ngoài, không để xảy ra tình trạng mang con bỏ chợ như Samoa, Malaysia và một số nơi mà báo chí đã đưa. • Thứ năm, giải quyết việc làm qua việc phục hồi và mở rộng các làng nghề truyền thống. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, nhờ phục hồi và đầu tư cho các nghề truyền thống mà tạo được việc làm cho nhiều người, sản xuất được những mặt hàng xuất khẩu có giá trị mang lại nguồn lợi đáng kể cho đất nước. Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống như chạm khảm, dệt, thêu ren, mây tre đan, Ví dụ, riêng phía Nam Hà Nội mới đã có 1.116 làng nghề, trong đó có 411 làng có 20% số hộ làm nghề, 120 làng được cấp bằng công nhận làng nghề với hơn 50% số dân sống bằng nghề truyền thống, giúp hàng ngàn lao động nông thôn, trong đó chủ yếu là thanh niên có việc làm. Nếu có sự quan tâm đầu tư thoả đáng trên khắp cả nước sẽ có hàng vạn 187
  6. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát làng nghề, không những giải quyết việc làm được cho nhiều thanh niên mà còn bảo tồn được ngành nghề truyền thống, mang lại lợi ích lâu dài cho quốc gia, dân tộc. Đối với một quốc gia có số dân phát triển nhanh như nước ta, giải quyết việc làm luôn là một vấn đề không thể một sớm một chiều. Tuy nhiên nếu Đảng và Nhà nước ta có chủ trương, chính sách định hướng đúng và ngành giáo dục đào tạo, tổ chức Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên biết cách tuyên truyền vận động và mỗi gia đình có ý thức trong việc lựa chọn ngành nghề cho con em thì vấn đề cũng sẽ đơn giản hơn nhiều. 7.2. Lạm phát (Inflation) 7.2.1. Lạm phát và các loại lạm phát 7.2.1.1. Khái niệm Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung (mức giá trung bình) theo thời gian. Lạm phát tồn tại ở khắp mọi nơi trong nền kinh tế thị trường. Lạm phát xảy ra khi mức giá chung thay đổi, khi mức giá tăng lên được gọi là lạm phát, khi mức giá giảm xuống được gọi là giảm phát. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm phát gọi là chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hoá cấu thành tổng sản phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế, phải đến cuối năm mới có thể xác định được chỉ số điều chỉnh GNP, cho nên người ta thường thay thế chỉ số này bằng một trong hai loại chỉ số giá thông dụng khác: Chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn (còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất). Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh sự biến động giá cả của giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho nền kinh tế ở một thời kỳ nào đó: t0 t pqii ∑ CPI= (00 ).100 ∑pqii Trong đó: CPIt là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t. Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng cho năm cơ sở (qt) với t biểu thị năm hay thời kỳ thứ t năm hay thời kỳ thứ t, với t = 0 ở năm cơ sở, và i là dạng viết gọn của mặt hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ hàng cơ sở. Thường người ta lựa chọn một thời kỳ cố định nào đó làm gốc để tính các chỉ số cá thể và tỷ trọng mức tiêu dùng của các loại hàng hoá. Thời kỳ gốc để tính chỉ số cá thể và thời kỳ gốc để tính tỷ trọng tiêu dùng có thể trùng nhau (cùng một năm gốc) và cũng có thể lựa chọn khác nhau (năm gốc cho giá khác với năm gốc cho cơ cấu tiêu dùng). Khác với chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn (giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động giá cả của đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá chi phí tất yếu sẽ tác động đến xu hướng giá cả hàng hoá trên thị trường. Hiện nay ở Việt Nam, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng (được tính hàng tháng, hàng quý, hàng năm). 7.2.1.2. Công thức tính tỷ lệ lạm phát Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát. Thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ là tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ này phản ánh sự biến động cũng như mức độ của lạm phát của thời kỳ đang nghiên cứu và được xác định bằng công thức: 188
  7. Bài 7: Thất nghiệp và lạm phát tt1− t CPI− CPI π= ⋅100% CPIt1− Trong đó: πt là tỷ lệ lạm phát thời kỳ t, CPIt là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t, CPIt – 1 là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t – 1. Nghiên cứu điển hình NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH LẠM PHÁT CƠ BẢN Nguyễn Minh Huệ Tổng cục Thống kê Những năm gần đây lạm phát trở thành vấn đề thời sự được đề cập thường xuyên trên phương tiện truyền thông. Lạm phát thường được hiểu là lạm phát giá mua hàng của người tiêu dùng và được biểu thị bằng chỉ số giá người tiêu dùng, gọi ngắn gọn là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). CPI được tính dựa trên một giỏ hàng cố định giữa kỳ báo cáo và kỳ gốc. Cơ cấu giá trị của giỏ được sử dụng làm quyền số. Giỏ gồm các mặt hàng giống nhau cả về lượng và phẩm cấp. Vì vậy, CPI phản ánh sự biến động chi phí để mua cùng một giỏ hàng giữa hai kỳ. CPI được xây dựng để tính biến động sức mua của đồng tiền, chi phí sinh hoạt, chứ không phải để tính lạm phát. Thế nhưng, không thể quan niệm sức mua, chi phí sinh hoạt chỉ thể hiện qua CPI. Các yếu tố thuế thu nhập, lãi suất tiền gửi, tiền vay và nhiều khoản chi khác không thể hiện qua CPI. Thêm vào đó, khi giá cả hàng hoá nào đó tăng lên người tiêu dùng có khuynh hướng mua mặt hàng thay thế với mức giá thấp hơn, trong khi CPI coi giỏ hàng là không đổi. Mặt khác lạm phát còn biểu hiện cả chi mua tài sản của doanh nghiệp, chi mua cho tiêu dùng Chính phủ, chi phí tiền lương. Các loại lạm phát này biểu hiện qua các chỉ số giá đầu vào, đầu ra của người sản xuất, xuất khẩu, chỉ số tiền lương. Một số nước công bố cả lạm phát chung cho các phần của GDP (GDP deflator). Tuy vậy chỉ số này trễ nên ít được sử dụng. CPI do Tổng cục Thống kê công bố hoàn toàn theo chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên CPI được xây dựng dựa trên lý thuyết kinh tế vĩ mô về chi phí sinh hoạt, chứ không phải là lý thuyết về chi phí lạm phát. Khi lý giải lạm phát là một hiệ n tượng tiền tệ, nghĩa là với tốc độ lưu thông tiền tệ không đổi (V), lạm phát (P) không xảy ra nếu cung tiền (M) không tăng (M = PQ/V). Trong khi đó CPI lại không chỉ phản ánh tác động của riêng chính sách tiền tệ mà cả chính sách tài chính, tỷ giá, thời vụ, tác động bất thường, tâm lý, thói quen, niềm tin người tiêu dùng, tăng dân số, cách tính lạm phát. Chính sách tài chính: Để tác động đến tổng cầu Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp nới lỏng hay thắt chặt chi tiêu công cộng, tiền lương, tăng giảm thuế gián thu, tăng giảm giá của khu vực kinh tế công (giá điện, sách giáo khoa, cước điện thoại), trợ giá, phụ thu, bảo hiểm thất nghiệp, phát hành tín, trái phiếu hay dùng ngân sách mua dự trữ để nâng đỡ giá cả. Các biện pháp này tác động trực tiếp đến tổng cầ u, đến CPI. Chính sách tiền tệ: Để đạt được mục tiêu ổn định giá, kích thích tăng trưởng, Ngân hàng Trung Ương sử dụng hai công cụ là lãi suất và mức cung tiền bằng cách tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, mua bán tín phiếu, trái phiếu ở thị trường mở. Hai công cụ này tác động trực tiếp đến cầu tiền và tài sản tài chính khác, từ đó tác động gián tiếp đến tổng cầu, đế n CPI. 189