Cuộc khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng về lý thuyết kinh tế

Dưới ánh sáng của các sự kiện mới đây, bài báo này xem xét nguồn gốc của những khó khăn
mà các mô hình kinh tế vĩ mô hiện thời gặp phải bao quanh loại khủng hoảng bất chợt mà chúng
ta đang thấy. Các lý do của điều này một phần là bởi các vấn đề căn bản của lý thuyết Cân bằng
Tổng quát (General Equilibrium) cơ bản và một phần là bởi các giả thiết phi thực tế mà hầu hết
các mô hình tài chính dựa vào. Cái là chung với cả hai là, những cảnh báo có tính hệ thống suốt
hơn một thế kỷ đối với lý thuyết tài chính và hơn 30 năm đối với lý thuyết cân bằng đã bị phớt lờ
đi và chúng ta vẫn cứ bám lấy các mô hình cả không đúng về mặt lý thuyết lẫn không tương
thích với dữ liệu. Chúng tôi đề nghị bỏ cơ sở cá nhân phi thực tế đối với hành vi tổng [hợp]
(aggregate behaviour) và bỏ giả thiết thậm chí còn phi lý hơn rằng aggregate ứng xử giống như
một cá nhân ‘duy lý’. Thay vào đó chúng ta nên phân tích nền kinh tế như một hệ thống thích
nghi phức tạp, và để ý tới cấu trúc mạng chi phối tương tác. Các mô hình thực hiện việc này, mà
trong số đó hai thí dụ được đưa ra, không giống các mô hình kinh tế vĩ mô chuẩn, chí ít có thể
cho phép chúng ta hình dung các ‘chuyển pha’ (‘phase transition’) chính trong nền kinh tế cho
dù chắc không có khả năng là chúng ta có thể tiên đoán thời gian bắt đầu của chúng. 
pdf 47 trang hoanghoa 07/11/2022 3740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cuộc khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng về lý thuyết kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfcuoc_khung_hoang_kinh_te_la_khung_hoang_ve_ly_thuyet_kinh_te.pdf

Nội dung text: Cuộc khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng về lý thuyết kinh tế

  1. của toàn bộ nền kinh tế, khác hơn là qua vài số liệu thống kê tóm tắt. Thế nhưng, bất chấp sự thực rằng hầu hết các cá nhân trong hệ thống không biết về sự tồn tại của nhau, hoạt động của họ một cách tập thể lại được điều phối một cách tuyệt vời. Các câu hỏi mà chúng ta phải hỏi, đầu tiên, là, làm sao mà tất cả các cá nhân này, mỗi trong số họ với thông tin đặc thù và các khả năng, lại tổ chức mình, trong hầu hết thời gian, theo một cách nhất quán và có thể tiên đoán được một cách tương đối? Đây là vấn đề về ‘sự tự–tổ chức’, một vấn đề trung tâm trong tư duy của Hayek (xem Hayek 1945). Thứ hai, vì sao mà hệ thống lại trải qua các chấn động lớn? Những vấn đề này có vẻ đối với tôi nêu ra các câu hỏi trung tâm cho các nhà kinh tế học hơn là vấn đề về các trạng thái, mà nền kinh tế đạt đến, có hiệu quả thế nào. Trong khi hệ thống kinh tế, đặc biệt hệ thống tài chính, có thể cho ta cảm tưởng rằng nó vận hành tốt, đôi khi nó có thể trượt vào một trạng thái hoàn toàn khác. Cái mà tôi biện hộ là, các chuyển động như vậy là nội tại (vốn có–intrinsic) chứ không phải do cú sốc bên ngoài nào đó. Sự chuyển động và những thay đổi quả thực, chí ít một cách cục bộ, đến từ hành vi có chủ đích của các cá nhân tạo thành hệ thống. Tuy nhiên, không ai trong số họ có thể bị quy trách nhiệm về những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế tổng [hợp]. Như Voltaire đã nói, ‘Trong một thác tuyết lở không một cánh tuyết đơn lẻ nào cảm thấy mình có trách nhiệm.’ Quả thực, cho dù cấu trúc của nền kinh tế có thể là khá vững chãi, cái mà tôi biện hộ là, hệ thống sẽ tiến hóa và có thể đôi khi trải qua những thay đổi rất lớn, mà các thay đổi đó không nhất quán với cách nhìn cân bằng tĩnh, cũng chẳng với cách nhìn trạng thái dừng (steady state). Vả lại, tôi gợi ý, rằng cái mà chúng ta quan sát thấy không phải là các tình huống hiệu quả theo bất cứ nghĩa nào. Rất nhiều đã đạt được về mặt điều phối, nhưng hầu như luôn luôn có dư địa để cải thiện theo mọi hướng, như Schumpeter (1950) đã tin chắc. Hãy để tôi quay lại ‘khủng hoảng tín dụng’ vừa qua, mà nó minh họa tốt điều này. Từ một tình trạng nơi nhiều chiều kích của nền kinh tế thế giới có vẻ đã đạt một độ ổn định nào đó, chúng ta đột ngột lao vào cái, như tôi đã nhắc tới, được mô tả như ‘cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất từ 1929’. Điều này đã xảy ra như kết quả của cú sốc lớn nào đó đối với nền kinh tế hay sự đến của tin tức quan trọng không lường trước nào đó? Tôi cho rằng đã không hề có chuyện ấy. Sornette (2003) có cùng quan điểm, rằng một sự sụp đổ thị trường chứng khoán không phải là kết quả của các sự kiện bên ngoài ngắn hạn, mà đúng hơn dính dáng đến một sự tích tụ nội sinh 10
  2. dài hạn, với các sự kiện ngoại sinh hoạt động chỉ như những cái kích [hoạt] (xem cả Johansen và Sornette 2006). Đặc biệt, ông chứng tỏ rằng các cuộc đổ vỡ tài chính là kết quả của ‘sự nổi lên tự phát của các sự kiện cực đoan [extreme] trong các hệ thống tự–tổ chức’, và nhận thấy rằng ‘các sự kiện cực đoan là đặc trưng của nhiều hệ thống phức tạp’. Điều này lặp lại ý nghĩ của Minsky’s (1982) về ‘các quá trình nội tại phá hủy’ trong nền kinh tế. Về mặt kinh tế, điều này có thể xảy ra thế nào? Cái đã đang xảy ra là, các tiêu chuẩn đã được phát triển và trở thành được xác lập. Trong việc chấp nhận các tiêu chuẩn này, các cá nhân có lẽ đã không ý thức được về các hậu quả tổng [hợp] của chúng. Trong trường hợp của khủng hoảng tài chính, các quy tắc trò chơi đã được thay đổi một cách nhẹ nhàng trong khu vực ngân hàng. Đã trở nên có thể chấp nhận được để cho vay những người có ít khả năng trả nợ cho món nay của mình, đã trở nên có thể chấp nhận được để sử dụng các vị thế ngày càng có tính đòn bẩy cao hơn, và đã trở thành tập quán chuẩn để chia thành tổ các khoản vay ngờ vực dưới dạng các sản phẩm phái sinh (derivative) với lý lẽ rằng rủi ro được ‘đa dạng hóa’. Thế nhưng, lợi ích từ sự đa dạng hóa các rủi ro phụ thuộc cốt yếu vào sự phân bố doanh lợi trên các tài sản đó; tôi sẽ quay lại vấn đề này muộn hơn. Tất cả điều này đã xảy ra bởi vì các tác nhân thấy những người khác hành động theo một cách nào đó và đã thành công và vì thế đã bắt chước hành vi của họ, không phải vì các tác nhân đã đánh giá lại danh mục [đầu tư] riêng của mình và thay đổi ước lượng của mình về tính rủi ro của nó. Tuy nhiên, sự dịch chuyển chậm và hầu như vô thức này là cội rễ của cuộc khủng hoảng. Thế nhưng, khi ngày càng nhiều khoản vay rủi ro được cấp trong một thế giới nơi giá nhà ở tăng vọt, không ai đã coi vấn đề này là một vấn đề thực. Các tập quán được nói đến đã trở thành thủ tục chuẩn và điều này, ở chính mức vi mô, đã khiến chúng có thể được chấp nhận. Hơn nữa, thông qua sự phân tán của các rủi ro này qua các sản phẩm phái sinh trong khắp khu vực ngân hàng đã được xem là không có sự đe dọa mang tính hệ thống nào. Quả thực, với những ngoại lệ hiếm hoi, (xem Freixas et al. 2000), người ta đã ít chú ý đến rủi ro hệ thống trong khu vực ngân hàng cho đến rất gần đây. Như May và Arinaminpathy (2009) chỉ ra, ‘Nghiên cứu chung về Các chiều hướng mới cho sự hiểu rủi ro hệ thống (New directions for understanding systemic risk’ (Kambhu et al. 2007) được Viện Hàn Lâm Khoa Học Hoa Kỳ và Ngân hàng Dự Trữ Liên Bang New York cùng tiến hành đã được thúc đẩy bởi quan sát rằng, mặc dù nhiều nỗ lực và các phân tích tinh vi đã ngày càng hướng tới việc tối đa hóa doanh lợi với rủi ro tối thiểu cho các ngân hàng và các hãng đầu tư riêng rẽ, về cơ bản không có sự chú ý 11
  3. nào được để ý để nghiên cứu động học thay đổi đi kèm của toàn bộ hệ thống, tức là, để nghiên cứu ‘rủi ro hệ thống’. Các cá nhân hay các ngân hàng đưa ra các quyết định đã không biết rằng các vị thế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau của họ đang gây ra một sự đe dọa đối với sự ổn định của toàn hệ thống. Thực ra, các tác nhân đơn lẻ tất cả đều cảm thấy mình được bảo vệ tốt do đã, thực sự, bảo hiểm các vị thế của mình với những người khác. Đã không có đầu óc trung tâm nào để nhận thấy điều này. Hệ thống, quả thực, như Hayek (1989) đã lập luận, đã luôn luôn tổ chức chính mình. Tuy nhiên, sự tự–tổ chức này, ngược với quan điểm chuẩn và phần lớn mang tính ý thức hệ, đã không mang lại ổn định. Thực vậy, như tôi đã nói, đã chỉ cần một sự suy sụt nhỏ trong thị trường tài sản để các ngân hàng bắt đầu trở nên lo ngại về ai đã nắm giữ các rủi ro xấu. Ngay khi điều này xảy ra, các ngân hàng trở nên cảnh giác cho nhau vay và thị trường tín dụng liên ngân hàng cạn ráo. Điều này đến lượt nó lại dẫn đến thiếu hụt tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Để nhắc lại, hệ thống bị đóng băng, không phải như kết quả của một sự kiện cụ thể đơn lẻ nào đó, mà như kết quả của một chuỗi các sự cố liên quan, và không có các tác nhân trong hệ thống đã dự kiến trước kết quả tập thể của những hành động riêng lẻ của họ. Tình hình được cứu vớt, như tôi đã nói, cho đến khi các vấn đề thanh khoản qua đi, chí ít một cách tạm thời, bởi các khoản bơm thanh khoản ồ ạt nhưng không phải không có các vấn đề khả năng trả nợ dẫn tới sự phá sản thực tế của một số ngân hàng, và chắc chắn không phải không có các hậu quả lớn đối với nền kinh tế thực. Nhưng, cái quan trọng là, các biện pháp đã được đưa ra là thuần túy thực dụng, và thường trực giao [tức không phù hợp] với cả cái các mô hình đã gợi ý lẫn với các tín điều ý thức hệ. Lời giải thích duy nhất mà những người ra quyết định đưa ra là, ‘trong thời kỳ đặc biệt chúng ta cần các biện pháp đặc biệt’. Nhưng là khó để đặt nhiều niềm tin vào các biện pháp mà không dựa trên cơ sở lý thuyết cũng chẳng dựa vào bất cứ quan điểm chính sách được định rõ nào. Cái nó dường như gợi ý là, những người ra quyết định ít hiểu biết về hệ thống thực sự hoạt động và diễn tiến thế nào, và các mô hình mà họ sử dụng hay được khuyên sử dụng, là đơn giản quá tách rời với thực tế. Như thế, trong thời kỳ khó khăn, lý thuyết được dẹp sang một bên và được thay thế bằng phán xét thực dụng. Sự tiến triển thực của nền kinh tế so sánh thế nào với diễn biến của loại quan điểm mà tôi tin chúng ta phải phát triển? Thứ nhất, nền kinh tế và khu vực tài chính đã tổ chức mình thành một hệ thống hết sức phụ thuộc lẫn nhau. Điều này, tuy vậy, không được phản ánh trong cấu trúc của 12
  4. các mô hình kinh tế vĩ mô hiện đại. Thứ hai và một cách nghịch lý, khu vực tài chính đã ngừng đóng vai trò cốt yếu của nó về việc điều hợp các nhà cung cấp vốn với những người có nhu cầu vốn, theo cách hiệu quả về mặt thông tin và minh bạch. Thực vậy, sự cài vào nhau rộng rãi của các cấu thành của các thị trường tài chính và nhà ở và sự buôn bán mạnh các sản phẩm phái sinh thực sự đã che dấu thông tin hơn là tiết lộ nó. Sự đa dạng hóa và sự đóng gói lại các tài sản được nói đến khiến cho ngày càng khó khăn để ước lượng rủi ro thật liên quan, và sự phụ thuộc vào diễn biến giá cả trên thị trường nhà đất có nghĩa rằng đã có tương quan đáng kể giữa các rủi ro của các tài sản riêng rẽ. Tồi tệ hơn, khi thị trường nhà đi xuống, cách mà theo đó các sản phẩm phái sinh đã được xây dựng làm cho rất khó đối với những người cho vay để tái cơ cấu các khoản vay của mình theo cách có lợi cho cả ngân hàng lẫn những người đi vay (xem Geanakoplos 2010). Như thế, hệ thống đã tự–tổ chức sự phá hủy chính nó và đã dẫn đến một sự thay đổi căn bản về tình hình kinh tế tổng [hợp]. Nhưng lại lần nữa, đấy là câu chuyện về tương tác và sự phụ thuộc lẫn nhau và sự đổ vỡ của các mối quan hệ về lòng tin và sự tin cậy mà đã được phát triển qua thời gian và không phải là một cú sốc từ bên ngoài đến một thị trường ổn định. Cái là quan trọng để nhấn mạnh lần nữa, trong tình hình này, là sự thực rằng không có sự tách bạch rõ ràng giữa các thị trường tài chính và ‘nền kinh tế thực’ đã gây ra nhiều vấn đề trong khu vực ngân hàng. Đấy là cái gì đó, hầu như theo định nghĩa, không lộ ra trong, hay đúng hơn thiếu vắng trong hầu hết các mô hình kinh tế vĩ mô. Trong sự diễn biến về sự khô cạn của thị trường tín dụng, một vai trò lớn đã được đóng bởi các công ty lớn giải ngân dựa vào các hạn mức tín dụng hiện tồn và do đó làm trầm trọng tình hình. Như Ivashina và Scharfstein (2010) giải thích, những khoản giải ngân các hạn mức tín dụng này đã là một phần của ‘sự đổ xô rút tiền– run’ ở các ngân hàng mà đã xảy ra tại đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng. Không giống các cuộc đổ xô rút tiền ngân hàng (bank run) kiểu cổ, được xúi bẩy bởi những người gửi tiền không có bảo hiểm khi đã không có bảo hiểm tiền gửi, bank run lần này bị xúi bẩy bởi những người cho vay ngắn hạn, các bên đối tác, và những người đi vay [đã có hạn mức tín dụng] những người lo ngại về tính thanh khoản và khả năng chi trả của khu vực ngân hàng. Nói cách khác, các mối lo ngại về khu vực tài chính đã dẫn các tác nhân trong nền kinh tế đến hành vi theo cách tăng cường khủng hoảng. Như thế, diễn tiến của cuộc khủng hoảng dính dáng một cách cốt yếu đến sự phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế thực và tài chính. Để lý giải diễn tiến này, vấn đề không phải 13
  5. là đi xem nền kinh tế đã rời khỏi, và có thể rồi quay trở lại, một cân bằng ra sao theo nghĩa cổ điển, [mà] đúng hơn là để hiểu khung khổ loại nào mà nó đã phát triển để đạt tất cả sự điều phối và sự tương thuộc mà chúng ta đã quan sát thấy. Rồi, và quan trọng hơn, chúng ta phải giải thích sự tự–tổ chức đó và phản ứng lây nhiễm của các thành tố có thể dẫn đến một sự thay đổi pha lớn. Vì thế có hai mức để tranh luận. Một mặt, chúng ta muốn giải thích làm sao tất cả các tác nhân trong nền kinh tế lại đi đến điều phối các hành động hàng ngày của mình theo một cách tương đối ổn định cho dù đấy có thể không tương ứng với một cân bằng theo nghĩa chuẩn. Mặt khác, chúng ta phải giải thích làm sao một hệ thống vận hàng theo cách này, một lần nữa không có nhà chức trách trung ương nào kiểm soát nó, lại có thể đột ngột tiến triển thành một khủng hoảng? Sự tiến hóa của lý thuyết kinh tế vĩ mô Trong phần tiếp theo, tôi vắn tắt trình bày các khía cạnh của lý thuyết kinh tế vĩ mô mà, trong các mô hình hiện thời, có vẻ đối với tôi là không đầy đủ hay sai lầm và thử giải thích làm thế nào chúng ta đã đi đến phát triển các mô hình có các vấn đề này. Lý lẽ cơ bản bắt đầu với sự thực rằng lý thuyết kinh tế vĩ mô đã cố nài phải có ‘nền tảng vi mô lành mạnh’ và tôi lập luận rằng điều này đã dẫn chúng ta đến con đường sai lầm. Tôi thảo luận vấn đề về sự tổng [hợp] (aggregation) và sau đó đến vấn đề thông tin. Rồi tôi ngó tới giả thuyết ‘thị trường hiệu quả’, và đặc biệt, các nguồn gốc lịch sử của nó và vì sao, như Alan Greenspan (2008) đã nhắc tới gần đây, tòa lâu đài trí tuệ này đã sụp đổ. Cuối cùng, để cho không đơn thuần gia nhập dàn hợp xướng phê phán, tôi đưa ra vài gợi ý về cái có thể là một cơ sở tốt cho lý thuyết kinh tế vĩ mô và nhắc tới hai mô hình tạo cơ sở cho sự phân tích khả dĩ khác. Một kinh tế học vĩ mô ‘khoa học’ hơn và vấn đề tổng (aggregation) Lý thuyết kinh tế vĩ mô đã rẽ ngoặt lớn khi người ta biện luận rằng các mô hình về các hiện tượng aggregate phải dựa trên ‘các nền tảng vi mô lành mạnh’. Nói cách khác, các khối xây dựng phải là các tác nhân, một trong các hành vi của họ được dựa trên các tiên đề cổ điển về tính duy lý mà chúng ta áp đặt lên các tác nhân đó trong lý thuyết chuẩn. Đã không còn có thể chấp nhận được để nghiên cứu các mối quan hệ giữa các biến số tổng (aggregate) mà không có các nền tảng hành vi cá nhân. Nhưng đi theo con đường này có nghĩa là khảo sát vấn đề aggregation. Làm sao chúng ta có thể aggregate hành vi cá nhân theo cách mà kết quả là dễ xử lý một cách giải tích và có loại các tính chất mà một nhà kinh tế học vĩ mô cần? Vấn đề làm sao chúng ta chuyển từ mức 14
  6. cá nhân sang mức aggregate đã được thảo luận rộng rãi trong các tài liệu chuyên môn (xem thí dụ Stoker 1995), và trong quá khứ những người đã trưởng thành trong truyền thống Cân Bằng Tổng Quát đã coi lĩnh vực của kinh tế học vĩ mô như tương ứng về cơ bản với hành vi aggregate của một mô hình dựa trên các cá nhân duy lý tối đa hóa. Cái được nhắc tới như kinh tế học vĩ mô Walrasian6 như vậy có thể được hình dung như lấy hành vi tối đa hóa độ thỏa dụng hay lợi nhuận cá nhân và chuyển nó sang mức aggregate. Bây giờ, vì các lý do mà tôi sẽ giải thích, để trách vấn đề aggregation, trong kinh tế học vĩ mô dữ liệu aggregate thường được coi cứ như là kết quả của những quyết định của một cá nhân. Điều này, như sẽ mau chóng trở nên rõ ràng và được nhiều người biết, là không chính đáng nhìn từ quan điểm lý thuyết nhưng đã không ngăn cản các nhà kinh tế học vĩ mô tiếp tục theo con đường này. Những người theo con đường này hỏi có thể xác lập các mối quan hệ có ý nghĩa nào giữa các biến số aggregate của nền kinh tế xuất phát từ một tập hợp của các cá nhân độc lập tối đa hóa sự thỏa dụng. Nhưng, họ đưa ra giả thiết thêm và cốt yếu rằng các aggregate được nói tới có thể được coi như kết quả từ một aggregate, hay sự lựa chọn của cá nhân trung bình, duy lý. Điều này đã không luôn là như vậy. Nhiều nhà kinh tế học vĩ mô ban đầu đã vừa lòng để định rõ các mối quan hệ giữa các biến aggregate và để kiểm thử chúng mà đã không nhờ đến các mô hình về hành vi cá nhân. Tuy nhiên đã là thói quen để cầu viện đến các quyết định cá nhân như một cách biện minh cho giả thiết đưa ra về các mối quan hệ kinh tế vĩ mô. Điều này lý giải cho nhận xét nổi tiếng rằng ‘70% của Lý thuyết Tổng quát của Keynes là kinh tế học vi mô’. Thực vậy, trong mô hình kinh tế học vĩ mô hiện đại tinh tế nhất, thuyết tổng hợp DSGE, mà tôi đã nhắc tới rồi, vấn đề aggregation đã không được giải quyết, chỉ được xem cứ như là đã được giải quyết. Việc này bỏ chúng ta lại ở đâu? Hoặc chúng ta tiếp tục thử hòa giải hành vi aggregate với hành vi của cá nhân duy lý chuẩn, một nhiệm vụ vô vọng nhìn từ quan điểm lý thuyết, hoặc chúng ta thừa nhận rằng sự khác biệt giữa hành vi cá nhân và hành vi aggregate là căn bản và rồi xây dựng các mô hình chỉ ra sự khác biệt này một cách tường minh. Như thế không phải là giả như không có aggregation mà nó phải chuyển vào trung tâm sân khấu. Vì thế tôi biện hộ rằng, vì hành vi aggregate không tương ứng với hành vi của một ‘cá nhân duy lý’ nên chúng ta phải mô 6 Liệu đấy có là thích hợp hay không như một tên gọi có thể được phán xử bằng ngó tới ‘Walrasian Economics’ của Donald Walker (2006). 15
  7. hình hóa các thị trường hay các nền kinh tế như các hệ thống thích nghi phức tạp sao cho chúng ta có thể đạt tiến bộ về giải thích các hiện tượng kinh tế tổng [hợp]. Như thế vấn đề cơ bản thực sự là, chúng ta tiếp tục, trong nhiều phân tích kinh tế vĩ mô, gạt bỏ vấn đề aggregation và xem các aggregate kinh tế cứ như chúng tương ứng với các cá nhân kinh tế duy lý mặc dù điều này không được biện minh về mặt lý thuyết. Chính sự quan sát đơn giản này khiến cho cấu trúc của các mô hình do các nhà kinh tế học vĩ mô xây dựng, dẫu có tinh vi đến đâu, là không thể chấp nhận được. Nhưng cái còn tồi tệ hơn là, vì lo giữ gìn các nền tảng khoa học, các nhà kinh tế học vĩ mô cũng gạt bỏ việc nghi vấn về tính lành mạnh của các nền tảng đó. Sự nghi ngờ như vậy đến từ kinh tế học hành vi và gieo nghi ngờ một cách rõ ràng về ý tưởng rằng bản thân các cá nhân ứng xử theo ‘nền tảng vi mô lành mạnh’ chuẩn. Đấy chẳng hề mới chút nào; Pareto đã dành cả một chương của cuốn Treatise on Sociology (Chuyên luận về Xã hội học) của mình cho cái được ông mô tả như ‘hành vi không–duy lý’ (Pareto 1916). Kể từ Simon (1957) trở đi, nhiều người đã gợi ý rằng các cá nhân suy luận một cách hạn chế và cục bộ. Các thí nghiệm, quan sát, và khảo sát về các quá trình thần kinh được dùng trong ra quyết định tất cả đều gợi ý rằng homo economicus (con người kinh tế) không là một mô tả chính xác hay thỏa đáng của việc ra quyết định của con người.7 Nhưng rồi người ta có thể hỏi một cách có lý vì sao các nhà kinh tế học vĩ mô cứ đeo đuổi các mô hình ‘tác nhân đại diện (representative agent)’ của họ nếu tác nhân đại diện được cho là duy lý hơn những người mà nó đại diện. Tính duy nhất, tính ổn định và ‘tác nhân đại diện’ Để xem cái gì đang diễn ra, tạm thời hãy giả sử rằng chúng ta bỏ sang một bên cuộc tranh luận về cái gì tạo thành tính duy lý và hãy chấp nhận các tiên đề chuẩn về tính duy lý cho các tác nhân kinh tế và chúng ta muốn xây dựng các mô hình vĩ mô của mình trên cơ sở đó. Vì sao việc này gây ra vấn đề? Câu trả lời đơn giản là, ngay cả dưới các giả thiết rất hạn chế này, [cũng] không có đảm bảo nào rằng nền kinh tế sẽ có bao giờ đạt các trạng thái cân bằng mà được các nhà kinh tế vĩ mô phân tích chi tiết đến vậy. Nói cách khác, chìa khóa cho vấn đề nằm ở tính ổn định của các trạng thái cân bằng. Chúng ta đưa ra các giả thiết duy lý thông dụng cho các cá nhân của chúng ta bởi vì giả thiết này cho phép chúng ta chứng minh sự tồn tại của các trạng thái 7 Về các tổng quan hay của các tài liệu chuyên môn liên quan, xem Rabin (1998), Camerer et al. (2004), và Angner và Loewenstein (2010). 16
  8. cân bằng. Những điều này có thể tỏ ra được đặc trưng bằng một sự phân bổ nguồn lực hiệu quả bởi ‘các định lý cơ bản của kinh tế học phúc lợi’ nổi tiếng. Thường được khẳng định rằng bằng cách nào đó, một nền kinh tế trong cân bằng, nếu bị đẩy ra khỏi trạng thái đó, sẽ quay trở lại trạng thái ấy, như kết quả của quá trình hiệu chỉnh nào đó. Thông thường, quá trình mò mẫm (tâtonnement) Walrasian, quá trình tăng giá của các hàng hóa mà cầu vượt cung và giảm giá các hàng hóa mà cung vượt cầu, đã được dùng như một thí dụ. Hãy tạm thời giả sử rằng chúng ta xác định quá trình nào đó như vậy, quá trình hiệu chỉnh giá cả khi chúng không trong cân bằng. Việc này sẽ chẳng hề giúp gì cho chúng ta cả, bởi vì vấn đề cơ bản là, các điều kiện mà chúng ta biết để đảm bảo tính ổn định của một quá trình như vậy lại không thể có được từ các giả thiết về hành vi của các cá nhân. Để cho hoàn toàn rõ ràng, cái mà Sonnenschein (1972), Mantel (1974) và Debreu (1974) đã chứng tỏ là, chẳng có hy vọng nào về một kết quả tổng quát cho tính ổn định, quả thực cũng không cho tính duy nhất của các cân bằng, nếu chúng ta muốn xây dựng một mô hình dựa chỉ vào các cá nhân thỏa mãn các tiên đề chuẩn về tính duy lý. Sức mạnh đầy đủ của kết quả của Sonnenschein, Mantel, and Debreu (SMD) thường không được nhận thức rõ. Không có tính ổn định hay tính duy nhất, thì tầm quan trọng thực chất của phân tích kinh tế dựa trên mô hình cân bằng tổng quát là hết sức hạn chế. Morishima (1964) đã rất rõ ràng, khi ông nói, liên quan đến tính ổn định, ‘Nếu các nhà kinh tế có thành công nghĩ ra một mô hình cân bằng tổng quát đúng đắn, cho dù có thể chứng minh là nó có một lời giải cân bằng, nó sẽ thiếu sự hỗ trợ thể chế để thực hiện lời giải cân bằng, thì lời giải cân bằng sẽ chẳng khác hơn gì một trạng thái không tưởng, trạng thái chẳng có quan hệ gì đối với nền kinh tế thực cả.’ Nhưng, đối với các nhà kinh tế học vĩ mô, tính duy nhất (uniqueness) cũng quan trọng. ‘Thống kê so sánh’ trong đó người ta so sánh một cân bằng với cân bằng khác, căn cứ vào một sự thay đổi trong các tham số, không có ý nghĩa khi có nhiều cân bằng. Bây giờ là rõ vì sao các nhà kinh tế học vĩ mô tìm thấy, như cách thông thường thoát khỏi vấn đề này, giả thiết về một ‘tác nhân đại diện’ vì điều này một cách hiển nhiên tạo ra một cân bằng duy nhất, [trạng thái] cân bằng sẽ liên kết với các giá khiến cho cá nhân không muốn di chuyển khỏi nơi anh ta đang ở đó. Tuy vậy, như tôi đã nói, giả thiết về một cá nhân như vậy để ngỏ cho sự phê phán quen biết (Kirman 1992; Stoker 1995) và việc nhờ cậy đến vật tạo tác này gây nên vấn đề cơ bản mà tôi đã nhắc tới và đã gặp phải trên con đường dẫn tới nơi bản thân cân bằng tổng quát được tìm thấy: vấn đề aggregation. Thực ra, chúng ta biết, như tôi đã chỉ ra rồi, rằng nói chung, không có mối 17