Các tư tưởng và chính sách kinh tế đương đại: Đâu là thuốc trị bệnh, đâu là thuốc an thần?

Nhà nước là vật cản lớn nhất của loài người trên con đường đến với tự do và
thịnh vượng. Các nhà kinh tế tự do tiền bối đã nhận ra điều này từ thế kỷ XVIII.
Kể từ đó dòng tư tưởng kinh tế cổ vũ vai trò của thị trường và loại bỏ dần vai
trò của nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội đã liên tục phát triển. Nhưng từ
khi trị “bệnh” này, xuất hiện một dòng kinh tế “thuốc an thần”, làm cho dân
chúng tin rằng một số hành động của nhà nước là hữu dụng hoặc vô hại. Tư
tưởng kinh tế của Keynes cũng như của các dòng tư tưởng bắt nguồn từ Keynes
sẽ hữu ích trong một số trường hợp nếu như chúng ta nhận thức được rõ ràng
rằng chúng đơn thuần chỉ là các ‘liều thuốc an thần’ cho nền kinh tế trên con
đường loại trừ các định chế nhà nước. Còn nếu không, chúng sẽ gây hại cho
quá trình này. Việc xác định đúng đắn vị trí của các dòng tư tưởng kinh tế trong
mối quan hệ với nhà nước sẽ giúp cho các nhà kinh tế và các nhà hành động
tránh được những tranh cãi không cần thiết cũng như có thể sử dụng nhịp nhàng
các công cụ kinh tế trên con đường loại trừ các định chế nhà nước. 
pdf 19 trang hoanghoa 07/11/2022 3400
Bạn đang xem tài liệu "Các tư tưởng và chính sách kinh tế đương đại: Đâu là thuốc trị bệnh, đâu là thuốc an thần?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfcac_tu_tuong_va_chinh_sach_kinh_te_duong_dai_dau_la_thuoc_tr.pdf

Nội dung text: Các tư tưởng và chính sách kinh tế đương đại: Đâu là thuốc trị bệnh, đâu là thuốc an thần?

  1. thời gian đủ dài để có thể nhận ra đấy là một sai lầm. Nhưng có lẽ đó là cách duy nhất để thay thế dần các định chế nhà nước bằng bằng các định chế thị trường. Theo thời gian, khi các định chế nhà nước càng thu nhỏ thì quyền lực của nhà nước cũng càng bị thu hẹp và quyền lực thị trường sẽ càng lớn mạnh, và người dân sẽ càng ngày càng nhận ra được rằng thị trường chứ không phải nhà nước mới là phương tiện thực sự đảm bảo tự do và thịnh vượng cho họ. Nhưng sự tiếp tục tồn tại của nhà nước trong một thời gian dài nữa đồng nghĩa với việc chúng ta vẫn cần phải có những lý thuyết giúp cho nhà nước vận hành một cách tốt nhất có thể trong giới hạn của nó. Đấy là những lý thuyết sử dụng nhà nước làm công cụ tạo ra sự bình ổn tạm thời trong xã hội; những lý thuyết làm dịu đi các cơn khủng hoảng do chính nhà nước gây ra. Những lý thuyết này tựa như thuốc an thần giúp cho người bệnh quên đi rằng mình có khối u di căn trong người, thậm chí còn đồng hoá nó thành một bộ phận hữu ích trong cơ thể. Nói cách khác, mặc dù chúng ta nhận ra được rằng nhà nước là một thực thể xấu xa nhất trong xã hội nhưng chúng ta vẫn phải nuôi dưỡng nó để tìm cách loại trừ nó. Đấy là tính huống tiến thoái lưỡng nan đối với căn bệnh nhà nước mà xã hội loài người mắc phải. 4. Vị trí của các lý thuyết kinh tế đối với Nhà nước Trong khi dòng tư tưởng kinh tế thuốc trị bệnh vẫn phát triển xuyên suốt từ các nhà kinh tế tự do tiền bối như Adam Smith, David Ricardo, Destutt de Tracy, và Karl Menger thì dòng tư tưởng kinh tế thuốc an thần chỉ thực sự xuất hiện khi cuốn Lý thuyết tổng quát của J.M. Keynes xuất hiện. Keynes, một người đạo đức, am tường văn thơ, nghệ thuật, một người đầy lòng trắc ẩn trước nỗi đau của người dân châu Âu sau thế chiến I và của những người thất nghiệp trong cuộc đại suy thoái 1929-1933, một người nhiệt thành trong hành động cứu giúp người khác đã đi tìm một lý thuyết để biện minh cho thái độ và hành động của mình. Thực ra, trong các giai đoạn suy thoái, việc các chính phủ, do chịu sức ép từ các nhóm lợi ích trong xã hội, cứu trợ nhóm này hay nhóm khác là một chuyện không có gì đáng bàn. Nhưng việc Keynes muốn nâng các hành động chi tiêu của chính phủ thành lý thuyết kinh tế lại là một chuyện khác hẳn. Do bị phân tán sang quá nhiều lĩnh vực, Keynes, dù là một con người có trí tuệ tuyệt vời, chỉ am hiểu kinh tế học một cách khá hạn chế. Như nhận xét của F.A. Hayek, ngoài kinh tế học Marshallian, Keynes biết rất ít về các nhà kinh tế Áo như Karl Menger, von Wieser, von Mises và các nhà kinh tế Thuỵ Điển như Knut Wicksell.11 Với những nỗ lực cao nhất có thể, Keynes đã đưa ra một lý thuyết kinh tế về mối quan hệ tuơng đối giản đơn và 11 Xem Hayek 1978 [1966]. 10
  2. tĩnh của các biến gộp (cho dù Keynes có đề cập đến các khía cạnh kỳ vọng và bất trắc) như tổng cầu, tổng đầu tư, tổng sản lượng của nền kinh tế. Có thể nói, ông là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về về sự tồn tại của các loại nguồn lực dư thừa, không được sử dụng trong xã hội do tâm lý sợ hãi của những người chủ sở hữu những nguồn lực ấy. Lý thuyết của ông đã xác lập một vị trí tích cực cho nhà nước trong vai trò người người khơi thông các nguồn lực không được sử dụng trong xã hội. Theo lý thuyết này, thông qua chi tiêu của mình, nhà nước làm cho người dân bớt sợ hãi, khiến họ tiếp tục tiêu dùng, tiếp tục đầu tư, và do đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cũng như của cải cho xã hội. Tuy nhiên, xét trên phương diện kinh tế, đây là một lập luận nguỵ biện. Trước hết, xét trên khía cạnh xây dựng lý thuyết, giả thiết các cá nhân bỏ hoang các nguồn lực (do yếu tố tâm lý) là một giả thuyết sai lầm. Nó khiến cho hệ thống giá cả trở thành thừa thãi, không có nghĩa lý (Hayek 1978:286). Tiếp đến, xét trên khía cạnh thực thi chính sách, thứ nhất, bản thân nhà nước không làm ra của cải vật chất; các khoản chi tiêu vượt quá mức duy trì chức năng đảm bảo an ninh và quốc phòng chỉ có thể được bù đắp bằng việc tăng thuế, bơm thêm tiền, hoặc vay nợ nước ngoài, mà rốt cục sẽ trở thành gánh nặng trút lên vai người dân. Thứ hai, các khoản chi đầu tư vượt quá mức của chính phủ không có gì đảm bảo là sẽ đem lại hiệu quả kinh tế bởi vì các khoản chi này được thực hiện bởi những công chức quan liêu chứ không phải là các doanh nhân. Và thứ ba, những khoản chi tiêu của người dân do bị chi tiêu của chính phủ kích thích sẽ bị đổ vào những nơi mà những công chức quan liêu muốn chứ không phải là thị trường muốn, và do đó, nguy cơ trở thành những khoản chi tiêu sai lầm là rất lớn. Tóm lại, tất cả những khoán chi tiêu của nhà nước theo kiểu này, xét về dài hạn, gần như chắc chắn gây ra tổn thất tuyệt đối cho nền kinh tế.12 Điều duy nhất đúng của lý thuyết này là, khi nhà nước tăng chi tiêu của mình, thì chắc chắn sẽ có một bộ phận dân cư, những người nhận được ưu đãi từ các khoản chi tiêu đó sẽ trở nên vui mừng. Trên phương diện đó, trong một số trường hợp, có thể nói hành động chi tiêu của nhà nước có tác dụng là liều thuốc an thần cho bộ phận dân cư chịu “thiệt thòi” trong quá trình vận động của nền kinh tế. Nói ngắn gọn, Keynes là người phát minh ra liều thuốc an thần chứ không phải là thuốc trị bệnh cho nền kinh tế. Tuy nhiên, ngay từ đầu Keynes không nhận ra được lý thuyết của mình thực ra chỉ là lý thuyết về thuốc an thần. Vì thế ông gọi lý thuyết của mình là lý thuyết kinh tế tổng quát. Nhưng có lẽ vào cuối đời Keynes là người nhận thức được rằng lý thuyết của ông có vẻ chỉ là lý thuyết thuốc an thần, chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ khủng hoảng thập niên 1930, thời kỳ 12 Độc giả có thể xem một phân tích đầy đủ nhất về những nguỵ biện của Keynes và những người theo keynesian trong Hazlitt (1959). 11
  3. lòng người bất an, sẵn sàng nổi loạn và làm cách mạng, có thể đưa xã hội phương tây vào chủ nghĩa phát xít và cộng sản.13 Ý tưởng của ông về sự hữu dụng của nhà nước trong sự phát triển kinh tế cũng như việc ông không nhận ra được sự hạn chế của lý thuyết của mình đã, một mặt tạo ra một trào lưu nghiên cứu kinh tế mới – kinh tế học vĩ mô, nhưng mặt khác, cũng khiến cho các học trò của mình không nhận ra được vị trí các lý thuyết của họ trong đời sống xã hội. Như vậy kể từ khi xuất hiện cuốn Lý thuyết tổng quát của Keynes, các tư tưởng kinh tế chia làm hai dòng – bất chấp việc các nhà kinh tế có nhận thức được điều này hay không – dòng kinh tế thuốc trị bệnh và dòng kinh tế thuốc an thần. Trong bảng dưới đây tôi phân loại các dòng tư tưởng kinh tế vào hai nhóm này. Dòng kinh tế thuốc trị bệnh hướng tới việc loại bỏ các định chế nhà nước bằng các định chế thị trường, trong khi dòng kinh tế an thần hướng tới việc làm cho dân chúng tin rằng một số hành động của nhà nước là hữu dụng hoặc vô hại đối với nền kinh tế. Trong mỗi dòng tư tưởng này, tôi cũng phân biệt mức độ ảnh hưởng nặng, nhẹ của chúng đối với nền kinh tế. Loại thuốc Trị bệnh An thần Cường độ Nặng Kinh tế Áo. Tổng hợp keynesian-tân cổ điển; kinh tế Keynesian mới; kinh tế hậu Keynesian; kinh tế tăng trưởng; kinh tế phúc lợi (vi mô). Nhẹ Kinh tế thể chế mới. Kinh tế trọng tiền; kinh tế cổ điển mới; kinh tế chu kỳ kinh doanh thực. Bảng phân loại các tư tưởng kinh tế đương đại theo mục đích ứng dụng của chúng trong mối quan hệ với nhà nước Ghi chú: Bảng phân loại này không đề cập đến sự phát triển của các phương pháp nghiên cứu trong kinh tế học. Trong lịch sử kinh tế đuơng đại chúng ta thấy có các phương pháp tiếp cận các vấn đề kinh tế như phuơng pháp praxeo, phương pháp phân tích so sánh, phương pháp lý thuyết trò chơi, phương pháp thí nghiệm, phương pháp cân bằng chung, phương pháp cân bằng từng phần, phuơng pháp kinh trắc, phương pháp sử dụng bảng đầu vào-đầu ra, phương pháp mô phỏng tính toán, v.v. Mỗi một trường phái thường sử dụng một số các phương pháp đặc trưng nhất định (chẳng hạn trường phái Áo sử dụng phương pháp praxeo, trường phái kinh tế thể chế mới sử dụng phương pháp phân tích so sánh v.v.). Tuy nhiên, có nhiều phương pháp được nhiều trường phái 13 Xem Hayek, ibid., p. 287. Trong cuốn Tư tưởng kinh tế kể từ Keynes, Beaud và Dostaler cũng lưu ý đến khía cạnh này tại các trang 99 và 143. 12
  4. cùng khai thác sử dụng (chẳng hạn hầu hết các trường phái kinh tế vĩ mô đều sử dụng phương pháp cân bằng chung và phương pháp kinh trắc). Trường phái kinh tế Áo được xếp vào ô trị bệnh-hạng nặng do tính triệt để và nhất quán của nó trong việc loại bỏ các định chế nhà nước ra khỏi đời sống kinh tế xã hội. Trường phái kinh tế thể chế mới được xếp vào ô trị bệnh-hạng nhẹ do trường phái này cho rằng có thể thay thế định chế nhà nước bằng định chế thị trường nhưng trong một số trường hợp nhất định sử dụng định chế nhà nước sẽ đỡ chi phí hơn định chế thị trường. Các trường phái kinh tế gắn chặt với Keynes như Tổng hợp keynesian-tân cổ điển, kinh tế keynesian mới, kinh tế hậu keynesian và hai nhánh kinh tế tăng trưởng và kinh tế phúc lợi (vi mô) được xếp vào nhóm an thần-hạng nặng vì tất cả các lý thuyết này đều cho rằng cơ chế thị trường luôn có những “mặt trái” hoặc “thất bại”, đòi hỏi phải có nhà nước can thiệp để làm giảm thiểu chúng. Và cuối cùng, các trường phái kinh tế trọng tiền, kinh tế cổ điển mới, và kinh tế chu kỳ kinh doanh thực được xếp vào nhóm an thần-hạng nhẹ vì tất cả các lý thuyết này đều chỉ ra rằng sự can thiệp tích cực của nhà nước vào thị trường đều không có tác dụng như nhà nước mong muốn – những lý thuyết này đều hướng đến việc nhà nước can thiệp vào thị trường thông qua những qui tắc rõ ràng để mọi chủ thể trên thị trường có thể điều chỉnh được các kế hoạch kinh tế của mình. Phân loại các trường phái kinh tế của chúng ta ở trên chỉ ra một cách tương đối vai trò của từng trường phái trong việc giải quyết bài toán lưỡng nan liên quan đến nhà nước. Trường phái kinh tế Áo giúp chúng ta công cụ hình dung ra được thế giới tự do đáng muốn trong tương lai cũng như giúp chúng ta thấy được những hệ quả không như ý khi áp dụng các công cụ của các trường phái kinh tế khác. Trường phái kinh tế thể chế mới giúp cho chúng ta thiết kế được các định chế thị trường để thay thế dần các định chế nhà nước. Các trường phái kinh tế an thần-hạng nhẹ giúp cho chúng ta xây dựng các qui tắc để hạn chế sự can thiệp tuỳ tiện của nhà nước. Và các trường phái kinh tế an thần-hạng nặng giúp chúng ta xoa dịu sự phẫn uất của những nhóm người chịu thiệt thòi do các chính sách can thiệp của nhà nước cũng như do quá trình thay thế các định chế nhà nước gây ra. Một khi chúng ta hiểu được vị trí công dụng của từng nhóm tư tưởng kinh tế chúng ta có thể tránh được những tranh cãi vô bổ cũng như có thể kết hợp chúng một cách nhịp nhàng, tựa như các thầy thuốc biết sử dụng song hành cả thuốc trị bệnh và thuốc an thần, để đẩy nhanh quá trình giải thể các định chế nhà nước và xây dựng một cách bền vững một xã hội thực sự tự do và thịnh vượng cho loài người. 13
  5. 5. Một số lưu ý cuối cùng Do thời gian có hạn nên cho phép tôi được tóm tắt lại đôi chút những gì tôi đã bàn luận ở trên trước khi đưa ra một số ngụ ý cuối cùng về tình hình kinh tế toàn cầu hiện nay. Tự do và thịnh vượng là mong ước lớn nhất của loài người trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Rất tiếc rằng mong ước ấy đã bị một thực thể xã hội biến dị, tựa như những khối u di căn trong cơ thể con người, vốn rất đỗi quen thuộc với chúng ta – nhà nước – ngăn trở. Nhưng chỉ tới thế kỷ XVIII, nhờ công của các nhà kinh tế tự do tiền bối, chúng ta mới phát hiện ra được nhà nước chính là thủ phạm “ném đá giấu tay” cản trở mong ước của con người. Kể từ đó những nỗ lực hạn chế quyền lực của nhà nước liên tục được thực thi. Tuy nhiên tới đầu thế kỷ XX, con đường đến với tự do này đã bị gián đoạn bởi chủ nghĩa tập thể. Vào năm 1936, Keynes đã phát minh ra được liều thuốc an thần để cứu nguy cho phần còn lại của thế giới tự do ở phương Tây. Rất tiếc Keynes đã không ý thức ngay từ đầu được rằng ý tưởng của ông chỉ là thuốc an thần chứ không phải là thuốc trị bệnh, khiến cho nó bị các đồ đệ của mình áp dụng bừa bãi vào thực tế trong nhiều thập niên sau đó. Bài viết này xác lập lại vị trí lý thuyết của Keynes, các trường phái kinh tế chịu ảnh hưởng từ Keynes, và các trường phái kinh tế khác trên con đường giải trừ các định chế nhà nước. Tôi đã phân loại các tư tưởng kinh tế vào bốn nhóm dựa trên hai tiêu chí: mục đích sử dụng trong mối tương quan với nhà nước (thuốc trị bệnh và thuốc an thần) và mức độ tác động (hạng nặng hay hạng nhẹ). Những nhà nghiên cứu, những nhà thực hiện chính sách cần phải phân biệt rõ ràng vị trí của lý thuyết kinh tế mà mình theo đuổi hoặc ứng dụng. Chừng nào chúng ta còn nhầm lẫn vai trò của các loại tư tưởng này trong quá trình giải trừ các định chế nhà nước, chừng đó chúng ta còn gây hoạ cho xã hội thay vì trợ giúp xã hội. Sự phân loại các tư tưởng kinh tế thành các nhóm kể trên có nhiều ý nghĩa trong thời điểm bước ngoặt của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Nền kinh tế thế giới đầu thế kỷ XXI đã đi được một bước dài trên con đường loại bỏ dần các định chế nhà nước. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đã được vận hành theo cơ chế thị trường ở những cấp độ khác nhau, kể cả những lĩnh vực khó khăn như điện lực hay bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội; sự lưu thông các yếu tố sản xuất như vốn và lao động cũng như của các thị trường hàng hoá đã rộng khắp toàn cầu. Tuy nhiên, con đường đến với tự do của nhân loại có thể lại bị gián đoạn một lần nữa bởi cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu hiện nay. Sự gián đoạn lần này, nếu xảy ra thì không phải là do sự hoảng loạn của dân chúng như trong thập kỷ 1930 mà là do sự mất phương hướng của các học giả, của các nhà kỹ trị trong lĩnh vực kinh tế. Nhận thức của dân chúng về vai trò của thị trường đã lớn hơn nhiều kể từ thập niên1980, nhưng niềm tin vào thị trường của các học 14
  6. giả thì có vẻ không được như vậy.14 Rất nhiều học giả vẫn chưa chịu chấp nhận rằng nguyên nhân của đợt khủng hoảng này là do các chính sách can thiệp của các nhà nước trên thế giới khiến cho cấu trúc tư bản (capital structure) toàn cầu bị méo mó; tiêu biểu trong số các chính sách can thiệp của nhà nước là các chính sách duy trì lãi suất chiết khấu thấp trong một thời gian dài của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), chính sách bảo lãnh các khoản cho vay dưới chuẩn của các tổ chức tài chính nhà nước như Freddie Mac (The Federal Home Loan Mortgage Corporation) và Fannie Mae (Federal National Mortgage Association), và chính sách neo tỷ giá quá lâu với đồng $US của Trung Quốc để kích thích xuất khẩu. Họ vẫn nghĩ rằng đợt khủng hoảng này là do “nền kinh tế đã quá tự do”, và vì thế, họ vẫn cho rằng các chính sách “giải cứu” của nhà nước là để hiệu chỉnh lại các “sai lầm của thị trường” chứ không phải đơn thuần chỉ là các liều thuốc an thần để giúp một bộ phận dân chúng đỡ sợ hãi.15 Đây là thời điểm cần một cải cách lớn, rộng khắp trên toàn cầu để loại bỏ các định chế nhà nước chứ không phải là quay trở lại mở rộng bộ máy nhà nước. Như đã nói ở trên, niềm tin vào thị trường của dân chúng giờ đây đã cao hơn nhiều, và vì thế, có lẽ chúng ta không cần thiết phải sử dụng những liều thuốc an thần quá nặng; hãy để một bộ phận các doanh nghiệp bị phá sản nếu như chúng đã thực hiện những khoán đầu tư quá sai lầm trong quá khứ, và có lẽ chỉ nên sử dụng ngân sách nhà nước để trợ giúp một số người thực sự rơi vào hoàn cảnh khó khăn do suy thoái, chẳng hạn những người bị mất việc trong một thời gian tương đối dài. Điều quan trọng hơn là chúng ta cần phải nghĩ đến việc cải cách lại các định chế tài chính nhà nước như các ngân hàng nhà nước, các tổ chức bảo lãnh tín dụng của nhà nước, các định chế thương mại toàn cầu. Và cũng đã đến lúc chúng ta phải bắt tay vào việc xây dựng hệ thống tiền tệ do tư nhân phát hành cũng như hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế và xã hội tư nhân nhằm giải quyết triệt để nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra trong tương lai. Chúng ta cũng cần phải suy nghĩ nhiều hơn đến việc tạo dựng các hệ thống phòng chống hiểm hoạ thiên nhiên tư nhân, hệ thống luật pháp tư nhân và và hệ thống quốc phòng 14 Phản ứng của các dân biểu Mỹ cũng như của một bộ phận khá lớn người dân Mỹ đối với kế hoạch bảo lãnh 700 tỷ USD của chính phủ Mỹ trong tháng 9-2008 đối với các công ty làm ăn thua lỗ thể hiện phần nào niềm tin vững chắc vào thị trường của người dân Mỹ. 15 Tiêu biểu là Paul Krugman, một nhà kinh tế vừa đoạt giải Nobel năm nay. Độc giả có thể xem các bình luận gần đây trên chuyên mục bình luận của ông tại tạp chí The New York Time. Chẳng hạn trong bài bình luận “Innovating Our Way to Financial Crisis” ngày 3/12/2007, Krugman cho rằng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là vì ngành công nghiệp tài chính đã phát minh ra quá nhiều loại hình dịch vụ mà không được nhà nước điều tiết. Trong bài bình luận “Let’s Get Fiscal” ngày 16/10/2008 ông thúc giục chính phủ mở rộng chính sách tài khoá để kích thích tiêu dùng và đầu tư công vì dân chúng không chịu tiêu dùng và đầu tư. Tư tưởng chính sách kinh tế Keynesian của ông được thể hiện rõ trong một cuốn sách kinh tế-chính trị của ông gần đây The Conscience of a Liberal(2007), tại đó ông nhấn mạnh chính sách kinh tế của chính phủ Mỹ trong thời gian tới là tiếp tục mở rộng an sinh xã hội cho toàn dân và giảm bất bìn đẳng xã hội. 15
  7. tư nhân để thay thế cho những định chế tương tự của nhà nước. Tôi tin rằng, nếu như chúng ta ý thức được vị trí của các tư tưởng kinh tế trên con đường giải trừ các định chế nhà nước và sử dụng chúng một cách hợp lý, thì có lẽ ngay trong thế kỷ XXI này chúng ta sẽ thấy được hình hài của một nền tự do phi nhà nước trên trái đất này. Tài liệu tham khảo Beaud và Dostaler 2008. Tư tưởng kinh tế kể từ Keynes. Nguyễn Đôn Phước dịch. NXB Tri Thức: Hà nội. Cavalcanti, R., A. Erosa, and T. Temzelides 1999. “Private Money and Reserve Management in a Random-Matching Model,” Journal of Political Economy, 107 (5). Hayek F. A. 1944. The Road to Serdom. The University of Chicago Press: Chicago, USA. Hayek F. A. 1976a. Law, Legislation and Liberty: The Mirage of Social Justice. The University of Chicago Press: Chicago. Hayek F. A. 1976b. Denationalization of Money. The Institute of Economic Affairs: London, UK. Hayek F.A. 1978 [1966]. “Personal Reflections of Keynes and the ‘Keynesian Revolution’”, in F.A. Hayek, New Studies in Philosphy, Politics, Economics and History of Ideas, Routledge and Kegal Paul: London. Hazlitt H. 1959. The Failure of the “New Economics”: An Analysis of the Keynesian Fallacies. D. van Nostrand Company, INC.: Princeton, NJ. Hoppe H. (ed.) 2003. The Myth of National Defense: Essays on the Theory and History of Security Production. Ludwig von Mises Institute. Hoppe H. 2006. “The Idea of a Private Law Society,” Hyman D. 2005. Public Finance: A Contemporary Application of Theory to Practice, 8e. Thomson South-Western: Mason, Ohio, USA. Mantzavinos C. 2001. Individuals, Institutions, and Market. Cambridge University Press: Cambridge, UK. Murphy R. 2002. Chaos Theory: Two Essays on Market Anarchism. RJ Communications LLC: New York. Nozick R. 1974. Anarchy, State, and Utopia. USA: Basic Books. 16
  8. Rothbard M. 1977. “Robert Nozick and the Immaculate Conception of the State,” Journal of Libertarian Studies, 1(1): 45-47. Rothbard M. 2000 [1974]. “Anatomy of the State,” in Egalitarianism as a Revolt Against Nature and Other Essays by Murray N. Rothbard (Auburn: Mises Institute), pp. 55-88. Trivoli G. 2007. “Policy Failures of the Federal Reserve System and a Proposed Competitive Money System,” The Journal of Social, Political and Economic Studies, 32(1). Weber and Smith 1999. “Private Money Creation and the Suffolk Banking System”, Journal of Money, Credit and Banking, 31(3), 624-59. 17
  9. LIÊN HỆ: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội Địa chỉ: Phòng 704, Nhà E4, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy Hà nội, Việt nam Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714 Fax: (84) 4 3704 9921 Email: Info@cepr.org.vn Website: www.cepr.org.vn © 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 18