Báo cáo tổng quan những nghiên cứu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam
Đây là một báo cáo tổng quan (literature review) về những nghiên cứu trong thời gian
qua liên quan đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Ở mức tổng thể, nhóm tác giả
khảo sát những báo cáo hoặc nghiên cứu xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu,
trong đó có Việt Nam. Ở cấp độ quốc gia, nhóm tác giả khảo sát hệ thống luật và các
văn bản dưới luật hiện hành ở Việt Nam có tác động đến môi trường kinh doanh, đồng
thời hệ thống hoá các nghiên cứu hoặc kết quả điều tra trong lĩnh vực này. Ba khía cạnh
quan trọng được tổng hợp là (i) các thủ tục hành chính và quản lý, (ii) mức độ tham
nhũng và chi phí phi chính thức, (iii) khả năng tiếp cận các nguồn lực của thị trường.
Báo cáo này cũng tổng hợp và hệ thống hoá các khuyến nghị chính sách đã được nêu
lên trong các nghiên cứu hiện hành.
qua liên quan đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Ở mức tổng thể, nhóm tác giả
khảo sát những báo cáo hoặc nghiên cứu xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu,
trong đó có Việt Nam. Ở cấp độ quốc gia, nhóm tác giả khảo sát hệ thống luật và các
văn bản dưới luật hiện hành ở Việt Nam có tác động đến môi trường kinh doanh, đồng
thời hệ thống hoá các nghiên cứu hoặc kết quả điều tra trong lĩnh vực này. Ba khía cạnh
quan trọng được tổng hợp là (i) các thủ tục hành chính và quản lý, (ii) mức độ tham
nhũng và chi phí phi chính thức, (iii) khả năng tiếp cận các nguồn lực của thị trường.
Báo cáo này cũng tổng hợp và hệ thống hoá các khuyến nghị chính sách đã được nêu
lên trong các nghiên cứu hiện hành.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo tổng quan những nghiên cứu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- bao_cao_tong_quan_nhung_nghien_cuu_ve_moi_truong_kinh_doanh.pdf
Nội dung text: Báo cáo tổng quan những nghiên cứu về môi trường kinh doanh tại Việt Nam
- để nhận được loại giấy tờ này lên đến 134 ngày. Đây có thể coi là một cản trở đối với khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của các doanh nghiệp, do các ngân hàng hầu hết đòi hỏi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như một tài sản cầm cố chính. Thủ tục và thời gian dành cho các thủ tục hành chính Do những quy định hành chính rườm rà, phức tạp nên những ndoanh nghiệp phải tiêu tốn khá nhiều thời gian để xử lý. Theo Rand và Tarp (2007), trung bình 29.1% thời gian của chủ doanh nghiệp chỉ để làm việc này, tức là chỉ còn lại 2/3 thời gian dành cho quản lý và điều hành. Những doanh nghiệp lớn hoặc ở những thành phố lớn thì thời gian còn dài hơn một cách đáng ngạc nhiên - 44.5% và 38.7% cho những chủ doanh nghiệp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hoặc trên 50% cho những doanh nghiệp có quy mô vừa và quy mô lớn. Tenev và các đồng nghiệp (2003) cho rằng hệ quả của sự kiểm soát quá mức kèm theo những thủ tục hành chính phức tạp của chính quyền địa phương đã dẫn đến mức độ phi chính thức cao ở Việt Nam. Nền tảng phát triển các hoạt động không chính thức chính là thiếu sân chơi bình đẳng, các doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu và quy mô khác nhau thường bị đối xử không công bằng, vì vậy DNTN qui mô nhỏ thường có xu hướng hoạt động không chính thức. Tuy nhiên, theo các tác giả, hoạt động không chính thức không giúp giảm gánh nặng chi phí hành chính cho doanh nghiệp mà trái lại doanh nghiệp lại càng phải dành nhiều thời gian hơn để đối phó với những quy định và có tỷ lệ chi hối lộ trong tổng doanh thu cũng cao hơn. Đóng thuế Theo Báo cáo môi trường kinh doanh của WB, các doanh nghiệp Việt Nam thuộc nhóm tiêu tốn nhiều thời gian nhất để đáp ứng các yêu cầu về thuế do những thủ tục thuế phức tạp nhiêu khê. Bình quân một doanh nghiệp phải nộp 32 lần và mất 1.050 giờ làm việc trong một năm, trong khi ở Indonesia là 266 giờ làm việc (WB/IFC, 2008). Đó cũng chính là lý do mà chỉ tiêu này bị đánh giá thấp thứ hai, chỉ sau chỉ tiêu bảo vệ nhà đầu tư trong bảng sắp thứ hạng của Việt Nam (xem bảng 2). Báo cáo của Hiệp hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam (2009) cũng cho thấy 39% doanh nghiệp được hỏi cho rằng thủ tục thuế hiện nay là phức tạp trong khi chỉ có 16% cho là đơn giản. Hơn 40% doanh nghiệp đánh giá chính sách thuế thiếu minh bạch và thiếu ổn định, chỉ có 13% cho là minh bạch và 5% cho là ổn định. Không những thế, tình trạng trốn thuế ở các DNTN khá trầm trọng (Toàn và các đồng nghiệp, 2004). Có cùng quan điểm, Rand và Tarp (2007) thấy gánh nặng thuế khóa của các doanh nghiệp trong diện điều tra tương đối thấp. Năm 2004, thuế chỉ chiếm trung bình 2.63% tổng 9
- doanh thu của các doanh nghiệp. Có đến 14% doanh nghiệp không trả đồng thuế nào, trong đó 91% là những doanh nghiệp không đăng ký chính thức. Theo các tác giả, bên cạnh năng lực thu thuế có vấn đề - khi có đến 90% thuế được thu bởi những quan chức cấp xã và huyện với khả năng hạn chế, thì vấn đề còn bị trầm trọng hơn bởi tình trạng tham nhũng và hối lộ của những nhân viên và quan chức ngành thuế. Tham những và chi phí phi chính thức Theo xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perception Index) của Transparency International, Việt Nam liên tục tụt hạng từ 82 (năm 2000) xuống 125/180 năm 2008, thuộc nhóm nước được coi là có tình trạng tham nhũng rất tồi tệ, kém rất xa các nước ASEAN khác, và tạm thời chỉ đứng trên Indonesia và Phillippines. Tham nhũng được coi là một nguyên nhân chính dẫn đến việc đặt thêm lên vai doanh nghiệp những chi phí phi chính thức và làm méo mó các chính sách của chính phủ, ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường kinh doanh lành mạnh. Theo VNCI (2006), tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin công bằng vẫn còn là trở ngại lớn đối với doanh nghiệp. Rất nhiều các doanh nghiệp sử dụng quan hệ cá nhân để có được những thông tin quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên trong một số nghiên cứu, phần lớn các DNTN không coi tham nhũng là trở ngại chính đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nguyên nhân là bởi tham nhũng đối với các DNTN có thể dự tính trước và gây tổn thất về chi phí không đáng kể cho các doanh nghiệp (WB, 2006). Rand và Tarp (2007) cho rằng có đến 41% doanh nghiệp đã từng hối lộ quan chức, tuy nhiên số tiền hối lộ tương đối nhỏ, trung bình chỉ chiếm 0.5% tổng doanh thu. Đánh giá thấp của các doanh nghiệp về trở ngại tham nhũng cho thấy quan điểm của phần lớn doanh nghiệp là coi hối lộ là điều tất yếu phải thực thi để “được việc”. 10
- Hình 1. Mục đích của việc hối lộ A. Tiếp cận các dịch vụ công cộng B. Nhận giấy phép hay giấy đăng ký C. Chi trả cho quan chức thuế D. Giành được hợp đồng của chính phủ/thủ tục công cộng E. Liên quan đến khách hàng F. Giành được hợp đồng từ khách hàng tư nhân G. Tạo mối quan hệ với khách hàng H. Tạo mối quan hệ với quan chức chính quyền I. Các mục đích khác Nguồn: Hình 4.4 (Rand và Tarp, 2007) Về mục đich của việc hối lộ tham nhũng, Rand và Tarp (2007) cho rằng chủ yếu là liên quan đến các thủ tục, dịch vụ công cộng, quan chức chính quyền và các hợp đồng đấu thầu nhà nước (Hình 1). Cũng theo Kokko (2005a), tham nhũng chủ yếu liên quan đến khu vực nhà nước, đặc biệt là trong mối liên hệ với các thủ tục công cộng và đầu tư cơ sở hạ tầng, cũng như là các giao dịch đất đai. Mặc dù những loại tham nhũng này có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động hàng ngày của khu vực tư nhân, chúng có thể có những ảnh hưởng gián tiếp. Ví dụ, có thể rất khó khăn cho các DNTN tham gia vào những dự án đầu tư nếu ngân sách của doanh nghiệp khó khăn cho những chi phí không chính thức. Rand và Tarp (2007) còn tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa hối lộ và những hỗ trợ nhận được từ những quan chức các cấp chính quyền. 47% doanh nghiệp nhận được hỗ trợ trực tiếp từ chính quyền cấp xã (phường), trong khi chỉ có 41% và 12% nhận được hỗ trợ từ cấp huyện (quận) và tỉnh (thành phố). Những doanh nghiệp muốn nhận được những hỗ trợ ở mức cao hơn thì phải chi trả những chi phí không chính thức (hối lộ). Có đến 26% các doanh nghiệp hối lộ quan chức để có được những hỗ trợ từ chính quyền cấp tỉnh (thành) và cao hơn. Như vậy, với những hình thức hỗ trợ không có cơ chế phân bổ có hiệu quả và minh bạch, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trở nên càng khó khăn và bất công hơn. 11
- Khả năng tiếp cận các nguồn lực và thị trường Phần lớn các nghiên cứu về môi trường kinh doanh ở Việt Nam đánh giá khả năng tiếp cận các nguồn lực như vốn, đất đai, lao động, cơ sở hạ tầng và thị trường đầu ra, thường cho thấy, bên cạnh những khó khăn tiếp cận chung của doanh nghiệp, khả năng tiếp cận bất bình đẳng giữa các khu vực của nền kinh tế. Hakkala và Kokko (2007) nhận thấy mặc dù những cải cách kinh tế trong thời gian qua đã dần tạo được môi trường kinh doanh công bằng hơn, những quy định và chính sách đang dần trở nên thân thiện và thuận lợi hơn cho khu vực tư nhân, nhưng những cản trở lớn nhất đối với các DNTN vẫn nằm ở những ưu đãi đối khu vực DNNN trong khả năng tiếp cận thị trường, vốn, đất đai, tạo hiệu ứng lấn át các DNTN. Tenev và các đồng nghiệp (2003) cho rằng sự cạnh tranh không công bằng được coi là điều kiện khắc nghiệt nhất mà các DNTN phải trải qua. Có đến 42% doanh nghiệp ở khu vực này phàn nàn những ưu đãi dành cho các DNNN là những cản trở chính cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tiếp cận thị trường lao động Rand và Tarp (2007) đánh giá cao điều kiện thị trường lao động linh hoạt, và coi là một trong những điểm mạnh của môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Một trong những tiêu chí để đánh giá là những quy định liên quan đến việc tuyển dụng và sa thải nhân công. Theo các tác giả, những quy định này được coi là đơn giản, không phức tạp, bởi tỷ lệ lao động tạm thời trên lao động dài hạn thấp (trung bình 7.2%), ám chỉ rằng những chi phí thuê mướn và sa thải lao động không quá lớn, nên không khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động ngắn hạn. Trong khi đó, theo đánh giá của Báo cáo Môi trường kinh doanh của WB, chỉ tiêu tuyển dụng và sa thải lao động của Việt Nam đứng ở vị trí rất khiêm tốn so với các nước, cũng như so với các chỉ tiêu khác của Việt Nam (xem bảng 2). Tuy nhiên, vấn đề lao động nổi trội nhất trong các nghiên cứu chủ yếu liên quan đến khả năng tiếp cận lao động có kỹ năng và trình độ. Đây có lẽ là hạn chế lớn nhất của lao động Việt Nam. Báo cáo của VNCI (2006) cho thấy lao động và nguồn nhân lực chất lượng cao hai năm liền là một trong ba khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Theo báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu GCI 2008-2009, trong cuộc khảo sát ý kiến các chuyên gia, thiếu lao động có trình độ là một trong ba yếu kém nhất của Việt Nam, và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của doanh nghiệp (Hình 2). Trên đồ thị dạng “mạng nhện” của Việt Nam (hình 3), một trong ba “vùng lõm” của Việt Nam là giáo dục và đào tạo đại học. 12
- Hình 2: Ý kiến của các doanh nghiệp về những “vấn đề lo ngại nhất” Nguồn: Hình 3. Sơ đồ mạng nhện điểm mạnh và điểm yếu của môi trường kinh doanh Việt Nam Nguồn: Rand và Tarp (2007) cho rằng việc tuyển dụng được nhân công có tay nghề cao ở những doanh nghiệp lớn là một trở ngại đáng kể, bởi các doanh nghiệp khó tiếp cận được tới những lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp với công việc cần tuyển dụng. Có đến 45% và 35% số lao động mới được tuyển dụng là từ sự giới thiệu từ bạn bè, họ hàng và từ những mối quan 13
- hệ mang tính cá nhân, và vì thế thông tin tuyển dụng đến được với mọi tầng lớp trở nên hiếm hoi. Tiếp cận nguồn vốn Những đánh giá về chỉ tiêu này không đồng nhất giữa các nghiên cứu. Theo Báo cáo của WB năm 2009, mặc dù thứ hạng chung về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh của Việt Nam tụt giảm 1 bậc nhưng lĩnh vực tín dụng vẫn tiếp tục được cải thiện thêm 5 bậc (từ 48/178 đến 43/181). Báo cáo đã đánh giá Việt Nam có nhiều thay đổi tích cực trong lĩnh vực vay vốn tín dụng bởi đã áp dụng hệ thống đăng ký thông tin tín dụng công giúp lưu trữ các hồ sơ tín dụng lâu hơn, giúp cung cấp cho các tổ chức tín dụng có thêm các dữ liệu về lịch sử tín dụng và khả năng trả nợ của các khách hàng tiềm năng. MPI (2008) cho rằng, so với trước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Các ngân hàng hiện nay đã sẵn sàng hơn trong việc cho vay, các gói sản phẩm và dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp phong phú hơn, bao gồm hoạt động cho thuê tài chính và một vài hoạt động bao thanh toán bắt đầu được triển khai. Tuy nhiên, nhìn chung các nghiên cứu còn lại đều cho rằng những cản trở về mặt tín dụng lại là rào cản quan trọng nhất tới sự phát triển của doanh nghiệp. Tỷ lệ những doanh nghiệp Việt Nam đánh giá sự thiếu khả năng tiếp cận đến tín dụng là một cản trở quan trọng đến sự tăng trưởng cao hơn nhiều các nước khác trong khu vực và trên thế giới (WB, 2006). Theo Rand và Tarp (2007), điều đáng lo ngại nhất và khó tháo gỡ nhất khi khởi đầu doanh nghiệp ở cả khu vực thành thị và nông thôn là thiếu vốn và khó có khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Đó cũng chính là lý do mà tín dụng phi chính thức đóng vai trò quan trọng trong thị trường vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Chỉ có 39% trong tổng số 1.069 doanh nghiệp thuộc mẫu điều tra đệ đơn xin vay vốn ngân hàng trong vòng 3 năm, trong khi có tới hơn nửa số doanh nghiệp khó khăn về vốn tìm đến thị trường phi chính thức, phần lớn là từ họ hàng (chiếm tới 42% doanh nghiệp vay vốn không chính thức) (Rand và Tarp, 2007). Thu nhập còn lại vẫn là nguồn tài trợ chính cho DNTN, chiếm đến 70% tổng tài trợ vốn cho 620 doanh nghiệp tham gia vào cuộc điều tra của MPDF (Tenev và các đồng nghiệp, 2003). Kokko (2004) còn công bố tỷ lệ thấp hơn nữa của tài trợ ngân hàng cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo đó các ngân hàng thương mại chỉ tài trợ 11%, và phần còn lại là vay nợ từ gia đình và các nguồn phi chính thức. Trong khi đó các DNNN rõ ràng là có khả năng tiếp cận các nguồn vốn tốt hơn nhiều. 36% tài trợ vốn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước là 14
- từ các khoản vay ngân hàng, 38% từ vốn cổ phần và 22% từ các nguồn khác (Tenev và các đồng nghiệp, 2003). Nguyên nhân, theo Hakkala và Kokko (2007), là do 99% DNTN là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên việc tiếp cận vốn khó khăn hơn những doanh nghiệp có lịch sử tín dụng nhiều năm hơn. Không những thế, DNNN vẫn được coi là thưc thể đầu tư ít rủi ro do những đảm bảo ngầm công khai của chính phủ và khả năng phá sản xảy ra là ít. Ngoài ra việc “cho vay chính sách” của các ngân hàng thương mại nhà nước cho các DNNN và mối quan hệ lâu dài cũng là những nguyên nhân mà các tác giả đề cập đến. Malesky và Taussig (2005) nhấn mạnh rằng, sự bất công bằng trong việc tiếp cận các nguồn tín dụng được tạo ra bởi những quy định cầm cố. Theo đó, giấy phép quyền sử dụng đất là một loại cầm cố thông dụng, chứ không phải là tiềm năng kinh doanh vì môi trường luật pháp thể chế không an toàn, không đủ khả năng để bảo vệ người đi vay và con nợ, cũng như việc thiếu năng lực đánh giá và quản lý tính thanh khoản của các tài khoản cầm cố khác như máy móc thiết bị. Sử dụng những số liệu của ADB, các tác giả thấy rằng do thị trường đất kém phát triển, rất ít các DNTN có khả năng có thêm được đất thông qua giấy tờ sử dụng đất chính thống, khiến họ luôn ở tình trạng yếu thế hơn khi tiếp cận các nguồn vốn vay. Trong khi đó, phần lớn các DNNN sở hữu những mảnh đất đẹp và lớn hơn, theo đó tăng khả năng vay được vốn chính thức. Theo MPI (2008), 32% doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn về nguồn tài chính, tín dụng. Việc các ngân hàng yêu cầu phải cung cấp kế hoạch kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chứng minh được quyền sở hữu tài sản cũng là một trong những lý do chính cản trở doanh nghiệp cừa và nhỏ tiếp cận được các nguồn vốn. Đó là chưa kể sự thiếu minh bạch và không thống nhất trong thủ tục và quyết định cho vay của các ngân hàng đối với loại hình doanh nghiệp này. Tiếp cận đất đai Những DNTN thấy khả năng tiếp cận được các mảnh đất thích hợp là một trong những rào cản lớn nhất ở giai đoạn khởi đầu kinh doanh cũng như trong các giai đoạn sau (Cartier và Sơn, 2004b và Rand và Tarp, 2007). Theo Perkins và Tự Anh (2008), Nhà nước vẫn kiểm soát mọi loại đất đai sử dụng cho mục đích công nghiệp. Một cách phân bổ đất đai được ưa chuộng là xây dựng những khu công nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả những doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, những khu công nghiệp hay khu chế xuất cũng chỉ là lựa chọn thứ hai do còn rất nhiều những thủ tục và rào cản tiếp 15
- cận đất đai và cơ sở hạ tầng. Và dĩ nhiên, các DNTN phần lớn không thể tiếp cận được các khu công nghiệp, và gặp rất nhiều khó khăn khi làm việc với các chính quyền địa phương để có được một mảnh đất nhỏ. Trong khi đó, những doanh nghiệp nhà nước với việc sở hữu những khu vực đất đô thị đẹp, đã thường sử dụng tài sản đất đai để đóng góp vốn cổ phần cho các liên doanh với nước ngoài, và chênh lệch ưu thế lại càng bị đẩy ra hơn. MPI (2008) nhận định rằng trong khi một số DNNN được giao đất và sử dụng chưa thực sự hiệu quả, các DN vừa và nhỏ (chủ yếu thuộc khu vực tư nhân) lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh. Ngay cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng tốn nhiều công sức và tiền bạc. Những quy hoạch đất đai không được công khai minh bạch, thủ tục đất đai rối rắm, quy định khác nhau ở các địa phương đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thuê đất để sản xuất kinh doanh. Theo Rand và Tarp (2007), khó khăn về đất đối với khu vực tư nhân một phần được giải thích bởi đất vốn thiếu sẵn, trong khi những mảnh đất cho kinh doanh sản xuất đã được phân phối (chủ yếu cho các DNNN) và việc tạo lập những mảnh đất cho mục đích sử dụng sản xuất thông qua chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất công nghiệp cho thấy rất khó khăn và gây tranh cãi bởi vấn đề đền bù đất đai cho người dân. Hakkala và Kokko (2007) thì cho rằng nguyên nhân là do thị trường đất hoạt động ko hiệu quả. Một tỷ lệ đất đai do các DNNN nắm giữ đang ko đc sử dụng hoặc không sử dụng hết, và đáng lẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn bởi khu vực tư nhân. Nhưng vấn đề ở đây là các DNNN ít có động lực hoặc không có phương tiện thể chế và pháp luật để bán hoặc cho thuê lại khuvực tư nhân. Nhiều DNNN có cho các DNTN thuê, nhưng là phi chính thức, và ở mức giá thuê cao hơn nhiều lần giá thuê chính thức được quy định bởi nhà nước. Tiếp cận các cơ sở hạ tầng Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI của WEF, cơ sở hạ tầng là một trong ba điểm yếu nhất của môi trường kinh doanh, ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh của các doanh nghiệp (hình 2 và hình 3). Tương tư, MPI (2008) nhận định rằng hạ tầng về giao thông (đường sắt, đường bộ, cầu, cảng biển, ) còn rất kém. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và dòng vốn đầu tư của nước ngoài. Rất nhiều dự án lớn bị chậm trễ hoặc thậm chí hủy bỏ do nhiều nguyên nhân trong đó có vấn đề giao thông, cũng như sự phát triển không đồng bộ như có đường thì chưa có cầu, chưa có bến cảng, kho bãi. Còn theo báo cáo của hiệp hội doanh nghiệp trẻ năm 2009, có đến hơn 50% doanh nghiệp được điều tra 16
- cho rằng cần điều chỉnh giá dịch vụ vận tải cho hợp lý hơn, và 25% doanh nghiệp cho rằng thời gian vận tải không được như mong muốn. Tiếp cận thị trường Tiếp cận thị trường quốc tế Bên cạnh khó có khả năng tiếp cận các nguồn vốn, việc thiếu thị trường được coi là trở ngại lớn thứ hai đối với các doanh nghiệp khi mới bắt đầu sản xuất kinh doanh (Rand và Tarp, 2007). Hakkala và Kokko (2007) nhận định tiếp cận thị trường là một trong những khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp nhỏ. Thị trường lớn nhất của những DNTN hiện tại chủ yếu là thị trường trong nước, việc mở rộng thị trường quốc tế đối với khu vực này là rất khó khăn. Do chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài rất cao, nên chỉ rất ít những doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được thị trường nước ngoài. Tỷ lệ phần trăm các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có xuất khẩu trực tiếp rất nhỏ, còn phần lớn là không có bất cứ chiến lược gì để tận dụng cơ hội mở của và hội nhập của nền kinh tế (Kokko và Sjoholm, 2005). Tiếp cận các dự án đầu tư chính phủ Theo Hakkala và Kokko (2007), thông thường các DNTN cung cấp hàng hóa và dịch vụ một cách gián tiếp cho các DNNN với tư cách là nhà thầu phụ. Cơ hội để làm nhà thầu chính trong các dự án của chính phủ rất khó khăn so với các DNNN. Sự không công bằng trong đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu khác nhau được thể hiện ngay ở điều kiện ban đầu của quá trình đấu thầu (Cartier và Son 2004a). Một ví dụ là tài liệu đấu thầu bắt buộc những doanh nghiệp phải có nhiều năm kinh nghiệm, và rõ ràng đã loại bỏ rất nhiều các DNTN, do lịch sử phát triển khu vực tư nhân mới được hình thành. Ngoài ra, cơ chế ngân sách khá lỏng lẻo trong các DNNN tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp thuộc khu vực này có những quỹ để hối lộ hoặc chi cho những chi phí phi chính thức khi tham gia đấu thầu đầu tư công cộng. Điều này đã tạo ra áp lực cạnh tranh không hiệu quả và thiếu công bằng giữa các doanh nghiệp (Hakkala và Kokko, 2007). Tất cả những vấn đề trên đã tạo ra thế bất lợi cho các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong các cơ hội thị trường và làm lãng phí các nguồn lực xã hội. 17
- Tổng hợp các khuyến nghị chính sách Các báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Báo cáo Môi trường kinh doanh của WB, sau khi đánh giá và xếp hạng môi trường đầu tư của các quốc gia, với ngụ ý các quốc gia càng có thứ hạng cao trong bảng xếp hạng thì càng có cơ hội tăng trưởng và phát triển, đã luôn ủng hộ và khuyến nghị những chính sách tạo lập được nhiều sự thông thoáng nhất cho kinh doanh. Những ngụ ý chính sách của các báo cáo có thể xem như một cách tiếp cận “tân tối thiểu can thiệp”– NMA (New Minimalist Approach), theo đó vai trò chủ yếu của chính phủ là đảm bảo một sân chơi bình đẳng và tự do cho khu vực tư nhân. Bất kể những chính sách, quy định nào tác động tiêu cực đến tăng trưởng của khu vực tư nhân đều được coi là mang lại những kết quả không mong muốn. Cụ thể, những chính sách được khuyến nghị cho các nước đang phát triển bao gồm: — Đơn giản hóa các thủ tục và quy định về giấy phép, đăng ký kinh doanh cũng như thủ tục đóng cửa doanh nghiệp. — Bảo đảm quyền sở hữu, bằng cách chính thức hóa sở hữu những bất động sản phi chính thức, và cải thiện khung pháp luật về thực thi các hợp đồng. — Tự do hóa thương mại và đầu tư, bao gồm cả một chính sách mở cửa hơn nữa đối với đầu tư nước ngoài, cũng như đối xử công bằng giữa những nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đơn giản hóa các thủ tục, hạ thấp thuế quan. — Hạn chế can thiệp của chính phủ trong thị trường lao động, thị trường tín dụng và thị trường hàng hóa cuối cùng — Giảm thuế và đơn giản thủ tục thuế kết hợp với mở rộng cơ sở thuế. — Cải cách khung pháp luật và tăng cường tính minh bạch Cụ thể hơn cho trường hợp Việt Nam, Tenev và các đồng nghiệp (2003) cho rằng muốn giữ được tốc độ tăng trưởng thì cần thiết phải cải thiện được môi trường kinh doanh. Và điều này cần những chính sách hỗ trợ của chính phủ để thúc đẩy khu vực tư nhân, cải tổ sâu hơn nữa khu vực tài chính ngân hàng, và phát triển hành lang pháp lý. Đặc biệt cần hướng cải thiện môi trường đầu tư cho khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo công ăn việc làm và chuyển đổi tiết kiệm sang đầu tư. Theo đó các khuyến nghị chính sách được đề cập như hợp lý hóa thể chế và luật pháp, tăng cường thực thi pháp luật và trách nhiệm hành chính, sử dụng các cơ chế gián tiếp để thực thi luật pháp, cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo sân chơi 18