Tài liệu Nghiên cứu khoa học
3. Các loại nghiên cứu khoa học trong y học
Dựa vào sản phẩm thu được sau nghiên cứu, có thể chia nghiên cứu ra 2 lĩnh vực chính: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
- Nghiên cứu cơ bản: nhằm phát hiện về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên xã hội con người. Mục tiêu là tìm tòi sáng tạo ra những kiến thức mới. Đối tượng nghiên cứu cơ bản là người khỏe hoặc vật thí nghiệm.
- Nghiên cứu ứng dụng: nhằm mục đích tìm cách vận dụng các quy luật, các kiến thức mới từ trong nghiên cứu cơ bản để tìm ra những nguyên lý, những giải pháp áp dụng vào thực tế đời sống xã hội.
Nghiên cứu khoa học chia 4 loại: cơ bản, ứng dụng, triển khai và dự báo. Nghiên cứu ứng dụng trong nghiên cứu y học được thực hiện trong 2 lĩnh vực:
- Lĩnh vực phòng b nh: còn gọi là nghiên cứu dịch tễ học, được tiến hành trên dân số (bao gồm người khỏe hoặc có bệnh) nhằm xác định yếu tố nguyên nhân gây bệnh. Kết quả những nghiên cứu này là cơ sở phát triển những biện pháp phòng chống.
- Lĩnh vực điều trị bệnh: được gọi là nghiên cứu lâm sàng, được thực hiện trên người bệnh nhằm tìm hiểu quá trình bệnh và tác dụng của những biện pháp điều trị. Kết quả của những nghiên cứu này là cơ sở để phát triển những phương pháp chẩn đoán và điều trị.
Dựa vào sản phẩm thu được sau nghiên cứu, có thể chia nghiên cứu ra 2 lĩnh vực chính: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
- Nghiên cứu cơ bản: nhằm phát hiện về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên xã hội con người. Mục tiêu là tìm tòi sáng tạo ra những kiến thức mới. Đối tượng nghiên cứu cơ bản là người khỏe hoặc vật thí nghiệm.
- Nghiên cứu ứng dụng: nhằm mục đích tìm cách vận dụng các quy luật, các kiến thức mới từ trong nghiên cứu cơ bản để tìm ra những nguyên lý, những giải pháp áp dụng vào thực tế đời sống xã hội.
Nghiên cứu khoa học chia 4 loại: cơ bản, ứng dụng, triển khai và dự báo. Nghiên cứu ứng dụng trong nghiên cứu y học được thực hiện trong 2 lĩnh vực:
- Lĩnh vực phòng b nh: còn gọi là nghiên cứu dịch tễ học, được tiến hành trên dân số (bao gồm người khỏe hoặc có bệnh) nhằm xác định yếu tố nguyên nhân gây bệnh. Kết quả những nghiên cứu này là cơ sở phát triển những biện pháp phòng chống.
- Lĩnh vực điều trị bệnh: được gọi là nghiên cứu lâm sàng, được thực hiện trên người bệnh nhằm tìm hiểu quá trình bệnh và tác dụng của những biện pháp điều trị. Kết quả của những nghiên cứu này là cơ sở để phát triển những phương pháp chẩn đoán và điều trị.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Nghiên cứu khoa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_nghien_cuu_khoa_hoc.pdf
Nội dung text: Tài liệu Nghiên cứu khoa học
- Tài liệu tham khảo NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (Dành cho đào tạo Điều dưỡng trình độ cao đẳng) Lƣu hành nội bộ Năm 2010
- MỤC LỤC Trang Bài 1. c đ ch nghi n c u hoa h c - c oại nghi n c u hoa h c trong h c 1 Bài 2. c ti u và c c i n nghi n c u . 3 Bài 3. c phư ng ph p ch n u và c ch t nh cỡ u .. .. 7 Bài 4. c oại thi t nghi n c u 17 Bài 5. hư ng ph p và c ng c thu th p i u . 23 Bài 6 và ph n t ch i u . 32 Bài 7. rình à d i u trong nghi n c u hoa h c .. 39 Bài 8. hư ng ph p vi t đề cư ng nghi n c u hoa h c . 48 Tài li u tham khảo . 62
- Bài 1 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC- CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG Y HỌC Mục tiêu học tập 1. Trình bày các khái niệm về nghiên cứu khoa học 2. Nêu các mục đích của nghiên cứu khoa học 3. Trình bày các loại nghiên cứu khoa học trong nghiên cứu y học Nội dung bài học 1. Định nghĩa Nghiên cứu khoa học là việc thu thập, phân tích và lí giải số liệu để giải quyết một vấn đề hay trả lời một câu hỏi (Theo Varkevisser và cộng sự, 1991). Nói cách khác, nghiên cứu khoa học phải bao gồm các bước thu thập số liệu trên thực địa (hay từ các ca bệnh trong bệnh viện hay phòng thí nghiệm), phân tích số liệu để có thông tin và trình bày các thông tin này trong phần kết quả và trong phần bàn luận và kiến nghị, lí giải các thông tin đó để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu hay đề xuất các biện pháp giải quyết vấn đề. 2. Mục đích của nghiên cứu khoa học trong y khoa Nghiên cứu khoa học trong y khoa nhằm phát triển những kiến thức và kỹ thuật mới. Những kiến thức và kỹ thuật này sẽ được biến thành những kỹ năng, công cụ để cải thiện tay nghề và sự cung cấp dịch vụ nhằm đạt được kết quả tốt hơn cho người dân. Kiến thức Cải thiện mới Kỹ năng tay nghề Nghiên cứu khoa Sức khỏe học tốt hơn Kỹ thuật Cung cấp mới Công cụ dịch vụ Hình 1.1 Mục đích của nghiên cứu khoa học trong y khoa 1
- 3. Các loại nghiên cứu khoa học trong y học Dựa vào sản phẩm thu được sau nghiên cứu, có thể chia nghiên cứu ra 2 lĩnh vực chính: nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. - Nghiên c u c ản: nhằm phát hiện về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên xã hội con người. Mục tiêu là tìm tòi sáng tạo ra những kiến thức mới. Đối tượng nghiên cứu cơ bản là người khỏe hoặc vật thí nghiệm. - Nghiên c u ng d ng: nhằm mục đích tìm cách vận dụng các quy luật, các kiến thức mới từ trong nghiên cứu cơ bản để tìm ra những nguyên lý, những giải pháp áp dụng vào thực tế đời sống xã hội. Nghiên cứu khoa học chia 4 loại: cơ bản, ứng dụng, triển khai và dự báo. Nghiên cứu ứng dụng trong nghiên cứu y học được thực hiện trong 2 lĩnh vực: - Lĩnh vực phòng b nh: còn gọi là nghiên cứu dịch tễ học, được tiến hành trên dân số (bao gồm người khỏe hoặc có bệnh) nhằm xác định yếu tố nguyên nhân gây bệnh. Kết quả những nghiên cứu này là cơ sở phát triển những biện pháp phòng chống. - Lĩnh vực điều trị b nh: được gọi là nghiên cứu lâm sàng, được thực hiện trên người bệnh nhằm tìm hiểu quá trình bệnh và tác dụng của những biện pháp điều trị. Kết quả của những nghiên cứu này là cơ sở để phát triển những phương pháp chẩn đoán và điều trị. 2
- Bài 2 MỤC TIÊU VÀ BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU Mục tiêu học tập 1. Trình bày tầm quan trọng viết mục tiêu cho một nghiên cứu 2. Trình bày định nghĩa biến số và tầm quan trọng việc xác định biến số 3. Lựa chọn được biến số thích hợp cho mục tiêu nghiên cứu Nội dung học tập 1. Mục tiêu nghiên cứu 1.1 Mục tiêu nghiên cứu là gì? Mục tiêu nghiên cứu nhằm tóm tắt những gì sẽ đạt được sau khi hoàn thành nghiên cứu.Thông thường người ta chia mục tiêu thành mục tiêu tổng quát và mục tiêu đặc hiệu. Mục tiêu tổng quát là những điều đạt được một cách chung nhất, còn mục tiêu đặc hiệu bao gồm các phần nhỏ hơn và có liên hệ với nhau và với mục tiêu tổng quát một cách hợp lí. Trong mục tiêu đặc hiệu nên cụ thể những điều sẽ làm trong nghiên cứu, làm ở đâu và với mục đích gì. Ví dụ: Nếu chúng ta có vấn đề nghiên cứu là “Mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp tại huyện A”. Sau khi phân tích vấn đề nghiên cứu chúng ta nhận thấy để giải quyết các vấn đề trên cần phải tìm hiểu các lí do khiến mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp tại huyện A, ta sẽ thiết lập mục tiêu tổng quát như sau: Nhằm đạt được mục tiêu tổng quát kể trên, chúng ta phải hoàn thành các công việc sau. Các công việc này được gọi là mục tiêu đặc hiệu: - Xác định các lí do của mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp tại huyện A. - Xác định mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em ở huyện A trong các năm 2013 và 2014 so với chỉ tiêu đặt ra. - Xác định có sự liên hệ giữa việc sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em với mùa trong năm, loại hình phòng khám. - Xác định các yếu tố dịch vụ của phòng khám ảnh hưởng đến tính hấp dẫn đối với bà mẹ. - Xác định các yếu tố văn hoá và kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em. 3
- - Kiến nghị các giải pháp để cải thiện sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em. - Xây dựng kế hoạch thực hiện và các kiến nghị phối hợp với các ban ngành. 1.2 Yêu cầu của mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu tốt cần phải đạt được các yêu cầu sau: - Phải đủ: bao gồm các khía cạnh khác nhau của vấn đề nghiên cứu. - Phải c thể: xác định rõ những biến số hoặc chỉ tố của những sự kiện được đo lường. - H th ng: mục tiêu cụ thể nên được liệt kê theo một trình tự hợp lí giúp giải quyết từng phần của nghiên cứu. - Đo ường được: Mục tiêu phải bắt đầu bằng các từ hành động cụ thể và có thể đánh giá mức độ đạt được như: xác định, so sánh, kiểm chứng, tính toán, mô tả. 2. Biến số 2.1 Khái niệm Biến số là những đại lượng hay những đặc tính có thể thay đổi từ người này sang người khác hay từ thời điểm này sang thời điểm khác. Biến chứa tất cả các giá trị quan sát được về cùng một đặc tính nhất định nào đó trên các cá thể khác nhau. 2.2 Phân loại biến số 2.2.1 Phân theo bản chất của biến số Biến số định lƣợng Nếu biến số thể hiện một đại lượng nó được gọi là biến số định lượng (quantitative variable). Biến số định lượng nhằm thể hiện một đại lượng và do đó có giá trị là những con số và biến số định lượng phải luôn luôn đi kèm theo đơn vị. Ví dụ: tuổi, đường huyết, hemoglobin, hematocrite, chiều cao, cân nặng, thu nhập Biến số định lượng có thể còn được chia thành: - Bi n s liên t c. Ví dụ: chiều cao - Bi n s rời rạc. Ví dụ: lần tiêm chủng Biến số định tính Nếu biến số nhằm thể hiện một đặc tính, biến số được gọi là biến số định tính. Biến số định tính còn được chia thành 3 loại: - Bi n s nhị giá: khi chỉ có 2 giá trị. Ví dụ: giới tính là biến nhị giá do chỉ có 2 giá trị là nam và nữ. 4
- - Bi n s danh địn): khi có 3 hay nhiều hơn các giá trị, là biến số mà giá trị của nó không thể biểu thì bằng số mà phải biểu diễn bằng một tên gọi (danh: tên) và các giá trị này không thể sắp đặt theo một trật tự từ thấp đến cao hay ngược lại. Ví dụ: dân tộc (kinh, hoa, khmer, chăm ), tình trạng hôn nhân (độc thân, có gia đình, li dị, goá ), nhóm máu (A, B, AB, O) - Bi n s th tự: khi có 3 hay nhiều hơn các giá trị và bản thân các giá trị đó có tính chất thứ tự. Ví dụ: tình trạng kinh tế - xã hội (giàu, khá, trung bình, cận nghèo, nghèo), học lực (xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, yếu, kém), tiên lượng (tốt, khá, xấu, tử vong) Để tiện việc nhập số liệu, người ta có thể mã hoá các giá trị của biến định tính vào các con số. Việc mã hoá này hoàn toàn có tính chất áp đặt và các con số được dùng trong mã hoá không phản ánh bản chất của biến số định tính. Ví dụ: có thể mã hoá giới tính, tuy ước Nam là 1, Nữ là 2. Tuy nhiên, việc mã hoá này là áp đặt và chúng ta hoàn toàn có thể quy ước Nam là 1, Nữ là 0. Việc mã hoá chỉ nhằm giúp việc nhập số liệu và xử lí số liệu trở nên dễ dàng hơn chứ không nhằm phản ánh bản chất của biến số đó.Riêng đối với biến số thứ tự thì việc mã hoá phải phù hợp với bản chất thứ tự của biến số. Biến sống còn (hay Biến số nhị giá theo thời gian) Nhiều trường hợp chúng ta không chỉ quan tâm đến phương diện biến cố có xảy ra hay không (biến nhị giá) mà còn quan tâm đến phương diện biến cố xảy ra vào lúc nào (một biến số định lượng). Biến số thể hiện đặc tính này gọi là biến sống còn. Ví dụ: sau khi điều trị bệnh nhân ung thư, chúng ta không chỉ quan tâm đến bệnh nhân có tử vong hay không mà chúng ta còn quan tâm đến bệnh nhân tử vong sau bao lâu khi điều trị và nếu bệnh nhân chưa tử vong thì bệnh nhân sống thêm bao lâu. 2.2.2 Phân loại theo mối quan hệ giữa các biến số Khi chúng ta quan tâm đến việc lí giải nguyên nhân của sự việc chúng ta chia biến số thành biến số độc lập, biến số phụ thuộc và biến số gây nhiễu: - Bi n s ph thuộc: dùng để mô tả hay đo lường vấn đề nghiên cứu - Bi n s độc l p: dùng để mô tả hay đo lường các yếu tố được cho là gây nên (hay gây ảnh hưởng đến) vấn đề nghiên cứu. 5
- Ví dụ: nếu nghiên cứu mối quan hệ giữa hút thuốc lá và ung thư phổi thì hút thuốc lá là biến số độc lập và ung thư phổi là biến số phụ thuộc. - Bi n s gây nhiễu: là biến số cung cấp một giải thích khác của mối quan hệ giữa biến số độc lập và biến số phụ thuộc. Một biến số được đánh giá là biến số gây nhiễu khi có 3 đặc tính sau: o Có liên quan đến biến số phụ thuộc (là yếu tố nguy cơ của vấn đề nghiên cứu). o Có liên quan đến biến số độc lập (phân bố không đều giữa các giá trị của biến độc lập). o Nằm ngoài cơ chế tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc. Ví dụ: Có mối liên hệ giữa số lần khám tiền sản và sinh con nhẹ cân dưới 2500 gram. Tuy nhiên, thu nhập gia đình cũng có thể ảnh hưởng đến số lần khám thai và việc sinh con nhẹ cân. Như vậy, thu nhập gia đình là yếu tố gây nhiễu. Số lần khám thai Cân nặng con lúc sinh (Biến số độc lập) (Biến số phụ thuộc) Thu nhập gia đình (Biến số gây nhiễu) Biến số nền (background variables): trong bất cứ nghiên cứu nào cũng có những biến số nền tảng như tuổi, giới, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế, tình trạng hôn nhân, tôn giáo Những biến số này thường có ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu (biến số phụ thuộc) và có tác động như biến số gây nhiễu. Nếu biến số nền có ảnh hưởng quan trọng đến nghiên cứu thì cần phải thu thập thông tin về biến số nền, nhưng không nên thu thập quá nhiều biến số nền để tránh làm tăng kinh phí nghiên cứu một cách vô ích. 6
- Bài 3 CÁC PHƢƠNG PHÁP CHỌN MẪU VÀ CÁCH TÍNH CỠ MẪU Mục tiêu học tập 1. Trình bày được các khái niệm về mẫu, quần thể, khung mẫu. 2. Trình bày được các phương pháp chọn mẫu 3. Nêu được các loại sai số trong quá trình chọn mẫu và các biện pháp khắc phục 4. Tính được cỡ mẫu cho một nghiên cứu khoa học Nội dung học tập 1. Đại cƣơng về mẫu và quần thể 1.1 Mẫu nghiên cứu Trên thực tế người ta không thể hoặc không cần thiết phải tiến hành nghiên cứu toàn bộ, đặc biệt trên quần thể lớn vì các lý do sau: - Không đủ nhân lực, vật lực và thời gian để tiến hành nghiên cứu - Chất lượng điều tra, nghiên cứu có thể không tốt do thường có nhiều sai số khi triển khai nghiên cứu lớn. - Mặt khác, khi nghiên cứu trên một lượng cá thể đủ lớn, đại diện cho quần thể thì kết quả nghiên cứu vẫn cho phép ngoại suy ra cho toàn bộ quần thể đó. Nhóm cá thể được rút ra từ quần thể nghiên cứu để phục vụ cho mục đích nghiên cứu được gọi là mẫu nghiên cứu. 1.2 Quần thể đích và quần thể nghiên cứu Mục đích của nhà điều tra không chỉ dừng lại ở quần thể nghiên cứu mà họ muốn khái quát trên quần thể lớn hơn được gọi là quần thể đích. Cần lưu ý rằng, quần thể nghiên cứu và đích đều được xác định bởi nhà nghiên cứu, chúng có chung một hiện tượng sức khỏe mà người nghiên cứu quan tâm, mặt khác chúng phải bao hàm các yếu tố về đối tượng (ai, cái gì), không gian (ở đâu), thời gian (khi nào). Trong nghiên cứu dịch tễ học, nó sẽ là lý tưởng nếu như quần thể nghiên cứu và quần thể đích là một.Tuy nhiên, nếu trường hợp thiếu thông tin cho việc chọn mẫu, thiếu sự chấp thuận của cộng đồng, hoặc thiếu nguồn lực mà người điều tra phải tách quần thể đích và quần thể nghiên cứu. 7
- Ví dụ: Người ta muốn nghiên cứu tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi của 1 huyện. Nhưng vì lý do nào đó người ta chỉ có thể rút mẫu từ trẻ em dưới 5 tuổi của xã A, B, C trong 10 xã của huyện. Vậy trẻ em dưới 5 tuổi của huyện được xem là quần thể đích, trẻ em dưới 5 tuổi của 3 xã A, B, C là quần thể nghiên cứu. 1.3 Đơn vị lấy mẫu, khung mẫu Đ n vị lấy m u: Là đơn vị của quần thể được chọn vào mẫu Khung m u: Để dễ dàng chọn được một mẫu từ quần thể, cần thiết phải có một danh sách các đơn vị mẫu hoặc bản đồ phân bố mẫu. Danh sách hoặc bản đồ như vậy được gọi là khung mẫu. 2. Các phƣơng pháp chọn mẫu 2.1 Chọn mẫu có xác suất 2.1.1 Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn (Simple random sampling) Là mẫu mà tất cả các thể trong quần thể có cùng cơ hội để chọn vào mẫu. Đây là dạng đơn giản nhất của mẫu xác suất. Để chọn một mẫu ngẫu nhiên đơn bạn cần: - Lập danh sách toàn bộ những đơn vị trong quần thể từ đó bạn muốn rút ra một mẫu - Chọn đơn vị mẫu sẽ được lấy vào mẫu, sử dụng phương pháp “bốc thăm” hoặc sử dụng “bảng số ngẫu nhiên” Ví dụ: Một mẫu ngẫu nhiên đơn gồm 50 sinh viên được chọn từ một trường học có 250 sinh viên. Sử dụng danh sách của 250 sinh viên, mỗi sinh viên nhận một số thứ tự (từ 1 đến 250), và những số này được viết trên một mẩu giấy nhỏ.Toàn bộ những mẩu giấy có số này được gập lại bỏ vào một cái hộp, lắc kỹ để đảm bảo là ngẫu nhiên. Tiếp theo, 50 mẩu giấy được lấy ra và số của chúng được ghi lại. Những sinh viên có những số này nằm trong mẫu nghiên cứu. 2.1.2 Chọn mẫu hệ thống Trong mẫu hệ thống những cá thể được chọn theo một khoảng cách đều đặn (ví dụ cứ 5 đơn vị ta lại lấy 1 đơn vị) từ khung mẫu. Các bước: - Tất cả các đơn vị mẫu phải ghi một danh sách - Xác định khoảng cách mẫu k = N/n (N là số ca 1 thể trong quần thể, n là cỡ mẫu) - Chọn một số ngẫu nhiên (i) giữa 1 và k. 8