Tài liệu Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm theo hướng công nghệ là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ
và vận hành sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được, nó phản ánh giá trị sử dụng
và chắc năng của sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản
phẩm. Trong những điều kiện xác định về kinh tế xã hội, quan điểm này đã phản ánh
đúng bản chất của sản phẩm về mặt kỹ thuật. Nhưng ở đây, nó chỉ là 1 chỉ tiêu kỹ thuật,
không gắn liền với những biến đổi của nhu cầu thị trường, cũng như điều kiện sản xuất
và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nước mỗi khu vực cụ thể. Do vậy,
điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ chất lượng sản phẩm không cải tiến kịp thời, khả năng tiêu
thụ kém và không phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên quan điểm này để
dùng đánh giá được chất lượng sản phẩm, đồng thời có thể cải tiến, hoàn thiện sản phẩm
(về mặt kỹ thuật) thông qua việc xác đinh rõ những đặc tính hoặc chỉ tiêu của sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm tiếp cận theo hướng khách hàng là các đặc tính của sản phẩm phù
hợp với yêu cầu của khách hàng và có khả năng thoả mãn nhu cầu của họ. Theo cách
tiếp cận này thì chỉ có những đặc tính của sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng
mới được coi là chất lượng sản phẩm. Mức độ thoả mãn nhu cầu là cơ sở để đánh giá
chất lượng sản phẩm . ở đây, chất lượng sản phẩm không cần thiết phải tốt nhất, cao
nhất mà chỉ cần nó phù hợp và đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng. Khách
hàng chính là người xác định chất lượng của sản phẩm chứ không phải nhà sản xuất
hay nhà quản lý. Do đó, sản phẩm hàng hoá cần phải được cải tiến, đổi mới một cách
thường xuyên và kịp thời về chất lượng để thoả mãn 1 cách tốt nhất nhu cầu của người
tiêu dùng. Đây cũng chính là khó khăn lớn mà nhà sản xuất- kinh doanh phải tự tìm ra
câu trả lời và hướng đi lên của doanh nghiệp.
Theo các hướng tiếp cận trên đây, để giảm đi những hạn chế của từng quan niệm, tổ
chức ISO đã đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm như sau: "Chất lượng sản phẩm
là một tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng); tạo cho thực thể (đối tượng) đó
có khả năng thoả mãn nhu cầu xác định hoặc tiềm ẩn". Quan niệm này phản ánh được
chính xác, đầy đủ, bao quát nhất những vấn đề liên quan tới chất lượng sản phẩm, từ
các yếu tố, đặc tính cơ lý hoá liên quan đến nội tại sản phẩm tới nhứng yếu tố chủ quan
trong quá trình mua sắm và sử dụng của người tiêu dùng: đó là khả năng thoả mãn nhu
cầu. Chính vì sự kết hợp này mà khái niệm trên đây được chấp nhận khá phổ biến.
và vận hành sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được, nó phản ánh giá trị sử dụng
và chắc năng của sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản
phẩm. Trong những điều kiện xác định về kinh tế xã hội, quan điểm này đã phản ánh
đúng bản chất của sản phẩm về mặt kỹ thuật. Nhưng ở đây, nó chỉ là 1 chỉ tiêu kỹ thuật,
không gắn liền với những biến đổi của nhu cầu thị trường, cũng như điều kiện sản xuất
và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nước mỗi khu vực cụ thể. Do vậy,
điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ chất lượng sản phẩm không cải tiến kịp thời, khả năng tiêu
thụ kém và không phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên quan điểm này để
dùng đánh giá được chất lượng sản phẩm, đồng thời có thể cải tiến, hoàn thiện sản phẩm
(về mặt kỹ thuật) thông qua việc xác đinh rõ những đặc tính hoặc chỉ tiêu của sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm tiếp cận theo hướng khách hàng là các đặc tính của sản phẩm phù
hợp với yêu cầu của khách hàng và có khả năng thoả mãn nhu cầu của họ. Theo cách
tiếp cận này thì chỉ có những đặc tính của sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng
mới được coi là chất lượng sản phẩm. Mức độ thoả mãn nhu cầu là cơ sở để đánh giá
chất lượng sản phẩm . ở đây, chất lượng sản phẩm không cần thiết phải tốt nhất, cao
nhất mà chỉ cần nó phù hợp và đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng. Khách
hàng chính là người xác định chất lượng của sản phẩm chứ không phải nhà sản xuất
hay nhà quản lý. Do đó, sản phẩm hàng hoá cần phải được cải tiến, đổi mới một cách
thường xuyên và kịp thời về chất lượng để thoả mãn 1 cách tốt nhất nhu cầu của người
tiêu dùng. Đây cũng chính là khó khăn lớn mà nhà sản xuất- kinh doanh phải tự tìm ra
câu trả lời và hướng đi lên của doanh nghiệp.
Theo các hướng tiếp cận trên đây, để giảm đi những hạn chế của từng quan niệm, tổ
chức ISO đã đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm như sau: "Chất lượng sản phẩm
là một tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng); tạo cho thực thể (đối tượng) đó
có khả năng thoả mãn nhu cầu xác định hoặc tiềm ẩn". Quan niệm này phản ánh được
chính xác, đầy đủ, bao quát nhất những vấn đề liên quan tới chất lượng sản phẩm, từ
các yếu tố, đặc tính cơ lý hoá liên quan đến nội tại sản phẩm tới nhứng yếu tố chủ quan
trong quá trình mua sắm và sử dụng của người tiêu dùng: đó là khả năng thoả mãn nhu
cầu. Chính vì sự kết hợp này mà khái niệm trên đây được chấp nhận khá phổ biến.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- tai_lieu_co_so_ly_luan_ve_chat_luong_san_pham.pdf
Nội dung text: Tài liệu Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm
- đổi to lớn trong sản xuất cho phép rút ngắn chu trình sản xuất, tiết kiệm nguyên vật liệu nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp trong việc quản lý, khai thác và vận hành công nghệ có hiệu quả cao. Bởi vì, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì thời gian để chếtạo công nghệ mới thay thế công nghệ cũ dần dần được rút ngắn lại. Sự ra đời của một công nghệ mới thường đồng nghĩa với chất lượng sản phẩm cao hơn, hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, đào tạo nhân lực để thích ứng với sự thay đổi liên tục của khoa học công nghệ không thể ngày một ngày hai mà phải có thời gian. Đây cũng là những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong khi nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng không nhiều. -Cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước Cơ chế chính sách của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thúc đẩy cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Việc ban hành các hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, các quy định về sản phẩm đạt chất lượng, xử lý nghiêm việc sản xuất hàng giả, hành kém chất lượng, không bảo đảm an toàn vệ sinh, thuế quan, các chính sách ưu đãi cho đầu tư đổi mới công nghệ là những nhân tố hết sức quan trọng, tạo động lực phát huy tính tự chủ, sáng tạo trong cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Rõ ràng, các doanh nghiệp không thể tồn tại một cách biệt lập mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt phải kể đến là cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Cơ chế quản lý vừa là môi trường, vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. -Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên có tác động mạnh mẽ đến việc bảo quản và nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là đối với những nước có khí hậu nhiệt dới, nóng ẩm mưa nhiều như Việt Nam. Nó tác động tới các đặc tính cơ lý hoá của sản phẩm, làm giảm đi chất lượng của sản phẩm, của hàng hoá trong quá trình sản xuất cũng như trong trao đổi, lưu thông và tiêu dùng. Khí hậu, thời tiết, các hiện tượng tự nhiên như: gió, mưa, bão, sét ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các, nguyên vật liệu dự trữ tại các kho tàng, bến bãi. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả vận hành các thiết bị, máy móc, đặc biệt đối với các thiết bị, máy móc hoạt động ngoài trời. Khí hậu, nóng ẩm cũng tạo điều kiện cho côn trùng, vi sinh vật hoạt động làm cho sản phẩm bị phân huỷ, nấm mốc, thối rữa ảnh hưởng tới hình thức và chất lượng của sản phẩm. Điều này dễ dàng gặp ở các sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp,ngư nghiệp. 9/34
- -Văn minh và thói quen tiêu dùng Trình độ văn hoá, thói quen và sở thích tiêu dùng của mỗi người là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố tác động như: Thu nhập, trình độ học vấn, môi trường sống, phong tục, tập quán tiêu dùng của mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu, phân đoạn thị trường theo các tiêu thức lựa chọn khác nhau trên cơ sở các nhân tố ảnh hưỏng để xác định các đối tượng mà sản phẩm mình phục vụ với chất lượng đáp ứng phù hợp với từng nhóm khách hàng riêng biệt. Tuy nhiên, khi kinh tế càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao thì văn minh và thói quen tiêu dùng cùng đòi hỏi ở mức cao hơn. Vì thế, doanh nghiệp cần phải nắm bắt được xu hướng đó, hoàn thiện và nâng cảo sản phẩm của mình để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng. Nhóm các nhân tố chủ quan. Là nhóm các nhân tố thuộc môi trường bên trong của doanh nghiệp, mà doanh nghiệp có thể( hoặc coi như có thể) kiểm soát được. Nó gắn liến với các điều kiện của doanh nghiệp như: lao động, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu, trình độ quản lý Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. -Trình độ lao động của doanh nghiệp Trong tất cả các hoạt động sản xuất, xã hội, nhân tố con người luôn luôn là nhân tố căn bản, quyết định tới chất lượng của các hoạt động đó. Nó được phản ánh thông qua trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm của từng lao động trong doanh nghiệp. Trình độ của người lao động còn được đánh giá thông qua sự hiểu biết, nắm vững về phương pháp, công nghệ, quy trình sản xuất, các tính năng, tác dụng của máy móc, thiếtbị, nguyên vật liệu, sự chấp hành đúng quy trình phương pháp công nghệ và các điều kiện đảm bảo an toàn trong doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng quản lý trong doanh nghiệp cũng như nâng cao trình độ năng lực của lao động thì việc đầu tư phát triển và bồi dưỡng cần phải được coi trọng. Mỗi doanh nghiệp phải có biện pháp tổ chức lao động khoa học, đảm bảo và trang bị đầy đủ các điều kiện, môi trường làm việc an toàn, vệ sinh cho người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải có các chính sách động viên, khuyến khích nhằm phát huy khả năng sáng tạo trong cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Mức thưởng phạt phải phù hợp, tương ứng với phần giá trị mà người lao động làm lợi hay gây thiệt hại cho doanh nghiệp. -Trình độ máy móc, công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng 10/34
- Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản, quyết định tới chất lượng sản phẩm. Trình độ hiện đại, tính đồng bộ và khả năng vận hành công nghệ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay, thật khó tin rằng với trình độ công nghệ, máy móc ở mức trung bình mà có thể cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao. Ngược lại, cũng không thể nhìn nhận rằng cứ đổi mới công nghệ là có thể có được những sản phẩm chất lượng cao, mà chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Nguyên vật liệu, trình độ quản lý, trình độ khai thác và vận hành máy móc, thiết bị Đối với các doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt thì chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng rất nhiều. Do đó, trình độ của các doanh nghiệp về công nghệ, thiết bị máy móc phụ thuộc vào rất nhiều và không thể tách rời trình độ công nghệ thế giới. Bởi nếu không, các nước, các doanh nghiệp sẽ không thể theo kịp được sự phát triển trên thế giới trong điều kiện đa dạng hoá, đa phương hoá. Chính vì lý do đó mà doanh nghiệp muốn sản phẩm của mình có chất lượng đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thì doanh nghiệp đó cần có chính sách công nghệ phù hợp và khai thác sử dụng có hiệu quả các công nghệ và máy móc, thiết bị hiện đại, đã đang và sẽ đầu tư. -Trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của doanh nghiệp. Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lao động dù có ở trình độ cao song không được tổ chức một cách hợp lý, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu sản xuất thì cũng khó có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng. Không những thế, nhiều khí nó còn gây thất thoát, lãng phí nhiên liệu, nguyên vật liệu của doanh nghiệp. Do đó, công tác tổ chức sản xuất và lựa chọn phương pháp tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp đóng một vai tròn hết sức quan trọng. Tuy nhiên, để mô hình và phương pháp tổ chức sản xuất được hoạt động có hiệu quả thì cần phải có năng lực quản lý. Trình độ quản lý nói chung và quản lý chất lượng nói riêng một trong những nhân tố cơ bản góp phần cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này gắn liều với trình độ nhận thức, hiểu biết của cán bộ quản lý về chất lượng, chính sách chất lượng, chương trình và kế hoạch chất lượng nhằm xác định được mục tiêu một cách chính xác rõ ràng, làm cơ sở cho việc hoàn thiện, cải tiến. Trên thực tế, sự ra đời của hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của quản lý trong qúa trình thiết kế, tổ chức sản xuất, cung ứng và các dịch vụ sau khi bán hàng. -Chất lượng nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là yếu tố chính tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, cấu thành thực thể sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng nguyên vật liệu đầu vào. Quá trình cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Quá trình cung 11/34
- ứng nguyên vật liệu có chất lượng tốt, kịp thời, đầy đủ, đồng bộ sẽ bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục , nhịp nhàng; sản phẩm ra đời với chất lượng cao. Ngược lại, không thể có được những sản phẩm có chất lượng cao từ nguyên liệu sản xuất không bảo đảm, đồng bộ hơn nữa nó còn gây ra sự lãng phí, thất thoát nguyên vật liệu. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào mà doanh nghiệp có thể bảo đảm được việc cung ứng nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất với chất lượng cao, kịp thời, đầy đủ và đồng bộ ? Điều này chỉ có thể thực hiện được, nếu như doanh nghiệp xác lập thiết kế mô hình dự trữ hợp lý; hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở nghiên cứu đáng giá nhu cầu về thị trường (cả đầu vào và đầu ra), khả năng tổ chức cung ứng, khả năng quản lý -Quan điểm lãnh đạo của doanh nghiệp. Theo quan điểm quản trị chất lượng sản phẩm hiện đại, mặc dù công nhân là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nhưng người quản lý lại là người phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm sản xuất ra. Trong thực tế, tỷ lệ tỷ lệ liên quan đến những vấn đề trong quản lý chiếm tới 80%. Do vậy, họ phải nhận thức được rằng đó không chỉ do lỗi ở trình độ tay nghè người công nhân mà còn do chính bản thân mình. Trên thực tế, liệu đã có nhà quản lý nào đặt cho chính họ những câu hỏi như: Họ bố trí lao động đã hợp lý chưa? Việc bố trí có phát huy được khả năng, trình độ tay nghề của người công nhân hay không? Sản phẩm sản xuất với chất lượng kém có phải do con người, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay do nguyên nhân nào khác Thêm vào đó, chính sách chất lượng và kế hoạch chất lượng được lập ra dựa trên những nghiên cứu, thiết kế của các lãnh đạo doanh nghiệp. Quan điểm của họ có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện chất lượng trong toàn công ty. Điều này chứng tỏ rằng, chỉ có nhận thức được trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp thì mới có cở sở thực hiện việc cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. 12/34
- Một số quan điểm về quản lý chất lượng sản phẩm và các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm Một số quan điểm về quản lý chất lượng sản phẩm và các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm Một số quan điểm về quản trị chất lượng sản phẩm Chúng ta biết rằng, để đạt được "chất lượng" như mong muốn, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp hàng loạt các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Một trong những yếu tố hết sức quan trọng là "quản lý chất lượng". Phải có hiểu biết đúng đắn về chất lượng và quản lý chất lượng thì mới có thể giải quyết tốt vấn đề chất lượng. Quản lý chất lượng đã được áp dụng trong nhiều ngành, nhiều loại hình doanh nghiệp với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Nhờ có nó mà các doanh nghiệp có thể xác định đúng đắn những nhiệm vụ quan trọng và phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu và vận dụng đúng nghĩa của nó. Từ các khía cạnh, góc độ khác nhau mỗi nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận riêng. Theo nhà quản lý người Anh A.G. Robetson: "Quản lý chất lượng sản phẩm là ứng dụng các biện pháp , thủ tục, kỹ thuật, đảm bảo cho sản phẩm phù hợp với thiết kế, yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đưòng hiệu quả nhất, kinh tế nhất". Theo Ishikawa - nhà nghiên cứu chất lượng người Nhật cho rằng: "Quản lý chất lượng sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu - thiết kế- triển khai sản xuất và bảo dưỡng, một sản phẩm có chất lượng phải kinh tế nhất và bao giờ cũng thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng". Quản lý chất lượng sản phẩm theo định nghĩa của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO là một hoạt động có chức năng quản lý nhằm đề ra các chính sách, mục tiêu, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như: Hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng. Nhìn chung các khái niệm trên đây đều có những điểm giống nhau:Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo chất lượng thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất, có hiệu quả kinh tế cao nhất được tiến hành ở tất cả các công đoạn hình thành chất lượng sản phẩm từ nghiên cứu-thiết kế-triển khai sản xuất-bảo quản và vận chuyển đến tiêu dùng. Quản lý chất lượng cần được bảo đảm trong tất cả các khâu, đó 13/34
- là trách nhiệm của toàn bộ nhân sự trong công ty từ cán bộ lãnh đạo cho tới các nhân viên, công nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm Trong lịch sử phát triển của sản xuất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đã không ngừng tăng lên do tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên khốc liệt. Cùng với sự phát triển đó thì khoa học quản lý được phát triển và hoàn thiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng, phản ánh sự thích ứng với môi trường và điều kiện kinh doanh mới. Quá trình nhận thức và ứng dụng về quản lý chất lượng sản phẩm đã vận động qua các giai đoạn khác nhau: -Kiểm tra chất lượng. Các sản phẩm sau quá trình sản xuất mới tiến hành kiểm tra các khuyết tật. Khi phát hiện ra các khuyết tật mới đề ra các biện pháp xử lý, thông thường phương pháp này không phát hiện ra được nguyên nhân đích thực. Tuy nhiên, để khắc phục những sai sót này thì các doanh nghiệp đã tăng cường các cán bộ KCS. Đi kèm với việc này là việc tăng chi tiêu rất nhiều mà công tác kiểm tra không đảm bảo, trong nhiều trường hợp độ tin cậy rất thấp. -Kiểm soát chất lượng Là việc đề ra các biện pháp đề phòng ngừa các sai sót, hay khuyết tật có thể xảy ra trong quá trình sản xuất thông qua +Kiểm soát con người. +Kiểm soát phương pháp và quy trình sản xuất. +Kiểm soát người cung ứng ( nguyên, nhiên vật liệu ) +Kiểm soát trang thiết bị dùng trong thử nghiệm và sản xuất. +Kiểm soát thông tin. -Đảm bảo chất lượng. Sau khi kiểm soát được chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cần phải duy trì mức chất lượng đã đạt được thông qua việc đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đây là quá trình cung cấp các hồ sơ chứng minh việc kiểm soát chất lượng và các bằng chứng việc kiểm soát chất lượng sản phẩm cho khách hàng. 14/34
- Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động có kế hoạch và hệ thống, được kiểm định nếu cần để đem lại lòng tin thoả đnág sản phẩm thoả mãn các yêu cầu đã định đối với chất lượng. Quan điểm đảm bảo chất lượng lần đầu tiên được áp dụng đối với các ngành công nghiệp đòi hỏi độ tin cậy cao sau đó phát triển rộng sang các sản phẩm bình thường khác độ tin cậy không cao. -Quản lý chất lượng Là việc xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, đồng thời tính toán hiệu quả kinh tế để có thể có được giá thành rẻ nhất. Bằng việc đề ra các chính sách thích hợp, quản lý chất lượng cho phép tiết kiệm tối đa và giảm thiểu các chi phí không cần thiết. -Quản lý chất lượng toàn diện Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của quản lý chất lượng sản phẩm bao gồm có 4 quá trình trên Quản lý chất lượng toàn diện là một phương phá quản lý trong một tổ chức định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đến sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích của mọi thành viên trong công ty và xã hội. Chất lượng (sản phẩm) toàn diện là sự thoả mãn sự mong đợi của người tiêu dùng có liên quan đến doanh nghiệp cả bên trong và bên ngoài. Quản lý chất lượng toàn diện được thực hiện trên quy mô tổng thể với sự tham gia của mọi thành viên trong doanh nghiệp, nhằm đạt được: "chất lượng toàn diện" trên cơ sở đảm bảo đầy đủ các điều kiện cần thiết để có: +Chất lượng thông tin. +Chất lượng đào tạo. + Chất lượng trong hành vi thái độ cư xử trong nội bộ doanh nghiệp cũng như đối với khách hàng bên ngoài. 15/34
- Nội dung công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp Nội dung công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế. Công tác thiết kế có tầm quan trọng rất lớn thể hiện ý đồ có tính chất quyết định trong chiến lược sản phẩm, chính sách chất lượng của một doanh nghiệp. Các sản phẩm được thiết kế một cách đúng đắn, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng sẽ góp phần rất lớn trong thành quản hoạt động, khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Công tác thiết kế được hiểu là sự kết hợp giữa nghiên cứu của bộ phận Marketing và triển khai thực hiện của phòng quản lý sản xuất. Nó được xem như cầu nối giữa chức năng marketing và chức năng tác nghiệp trong một doanh nghiệp. Do đó, công tác thiết kế phụ thuộc rất nhiều vào kết quả, hiệu quả, chất lượng của các hoạt động nghiên cứu thị trường. Hoạt động này có ảnh hưởng rất nhiều tới khả năng tiêu thụ, cạnh tranh của sản phẩm trong tương lai, nó đưa ra những đề xuất cho thiết kế sản phẩm mới phù hợp hơn với nhu cầu thị trường. Các công việc cần thực hiện trong giai đoạn này: -Tập hợp và chuyển hoá những nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm của sản phẩm thông qua nghiên cưú đề xuất của tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp: marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng nhằm thiết kế sản phẩm. Thiết kế là quá trình bảo đảm thực hiện những đặc điểm sản phẩm đã xác định để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Kết quả của các quá trình này là các bản sơ đồ thiết kế, ích lợi mà người tiêu dùng nhận được từ đặc điểm của sản phẩm. -Đưa ra các phương án khác nhau cho quá trình thiết kế để đáp ứng được nhu cầu thị trường. Các đặc điểm sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ hay cải tiến cho phù hợp với những đòi hỏi mới, hoặc đưa ra những đặc điểm hoàn toàn mới. -Thử nghiệm, kiểm tra các phương án nhằm lựa chọn phương án tối ưu. -Quyết định những đặc điểm đã lựa chọn. Đáp ứng nhu cầu thích hợp với khả năng, bảo đảm tính cạnh tranh, tối ưu hoá chi phí. -Phân tích kinh tế: đánh giá mối quan hệ giữa những lợi ích mà sản phẩm đem lại với chi phí để sản xuất sản phẩm. Những chỉ tiêu cần kiểm tra trong giai đoạn này bao gồm: 16/34
- -Trình độ chất lượng sản phẩm thiết kế -Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế thử. -Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử và các biện pháp điều chỉnh. -Hệ số chất lượng của chuẩn bị thiết bị, công nghệ sản xuất hàng loạt sau đó. Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng nguyên vật liệu đầu vào Mục tiêu của giai đoạn này là nhằm đáp ứng đúng chủng loại số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế- kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên, liên tục, tiết kiệm chi phí. -Lựa chọn người cung ứng có khả năng đáp ứng chất lượng vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. -Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ và thường xuyên, cập nhật. -Thoả thuận việc bảo đảm chất lượng thường xuyên nguyên vật liệu cung ứng. -Thoả thuận phương pháp thẩm tra, xác minh. -Thoả thuận phương pháp giao nhận. -Xác định những điều khoản giải quyết khi có tranh cháp xảy ra. Quản lý chất lượng khâu sản xuất. Mục đích của khâu quản lý quá trình sản xuất không phải là loại bỏ những sản phẩm xấu, kém chất lượng sau quá trình sản xuất, mà phải ngăn chặn những nguyên nhân làm xuất hiện sản phẩm xấu trong quá trình sản xuất. Mặt khác, việc ngăn chặn những sản phẩm xấu không chỉ dựa vào bộ phận KCS hoặc xem phương pháp này là công cụ chủ yếu để loại bỏ phế phẩm, thứ phẩm Bởi vậy, phải quản lý ngay từ đầu khâu đầu tiên của quá trình hình thành chất lượng sản phẩm. Trong sản xuất, phải phát hiện ngay những sai sót trong mọi công đoạn càng sớm càng tốt, đặc biệt là những khâu đầu - xử lý nguyên vật liệu, tạo hình sản phẩm, gia công chế biến Ngoài ra cần có nhận thức đúng đắn việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như quản lý quá trình sản xuất, không chỉ là trách nhiệm của nhà quản lý, mà là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Tất cả thành viên từ lãnh đạo đến công nhân, cán bộ phòng ban đều phải tham gia vào quá trình quản lý chất lượng sản phẩm, trong đó khâu quản lý quá trình sản xuất là giai đoạn quan trọng quyết định 17/34
- sự hình thành các đặc tính, chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm. Mục đích của quản lý quá trình sản xuất. -Đảm bảo chất lượng sản phẩm được hình thành ở mức cao nhất (theo yêu cầu thiết kế), thoả mãn yêu cầu thị trường ở mức độ thích hợp nhất. -Đảm bảo chi phí sản xuất ở mức thấp nhất. -Đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất (số lượng, chất lượng) đúng thời gian quy định. -Đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm trong quá trình lưu thông, giảm tối đa sự biến đổi về chất lượng. Để thực hiện các mục tiêu trên đây, các công việc cần thực hiện trong quá trình quản lý. -Cung ứng vật tư nguyên vật liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, địa điểm -Tổ chức lao động hợp lý, để các thành viên là người sáng tạo ra chất lượng, tự mình kiểm tra và khắc phục kịp thời mọi sai sót. -Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, thao tác thực hiện các công việc. -Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bán thành phẩm sau từng công đoạn, để khắc phục sai sót và khắc phục, loại bỏ các nguyên nhân. -Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh. -Kiểm tra, hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra, đo lường chất lượng. -Kiểm tra thường xuyên kỹ thuật công nghệ để có kế hoạch bảo dưỡng kịp thời. Những chỉ tiêu chất lượng cần xem xét đánh giá trong giai đoạn này. -Thông số kỹ thuật của các chi tiết bộ phận, bán thành phẩm và thành phẩm. -Các chỉ tiêu về tình hình thực hiện kỷ luật công nghệ, kỷ luật lao động trong các bộ phận cả hành chính và sản xuất. -Các chỉ tiêu về chất lượng quản trị của cán bộ quản lý. -Các chỉ tiêu về tổn thất, thiệt hại do sai lầm, vi phạm kỷ luật lao động, quy trình công nghệ. 18/34