Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Khoa Mác Lê
Bài mở đầu: Nhập môn lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Khoa Mác Lê", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- lich_su_dang_cong_san_viet_nam_khoa_mac_le.pdf
Nội dung text: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - Khoa Mác Lê
- ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo. Đảng thiếu chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đường kách mệnh dành một phần thích đáng để giới thiệu các tổ chức chính trị của Quốc tế cộng sản như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên và hướng dẫn nhân dân Việt Nam tham gia các tổ chức đó. Đường kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ngày càng chiếm ưu thế. Năm 1928, hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương “Vô sản hoá”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sống và cùng làm việc với công nhân, đồng thời, cũng là phương thức truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm 1982, có 300 hội viên, năm 1929, có có 1.700 hội viên. Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức, vận động nhân dân đấu tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân. Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời. Phong trào diễn với những hình thức sơ khai như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cái ký, đưa đơn phản kháng, rồi tiến dần lên những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp như bãi công. Phong trào công nhân những năm 1919-19125 đã có bước phát triển mới so với trước chiến tranh. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn. Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt. Phong trào đang phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước. 3. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát triển mạnh, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng.
- Ngày 17/06/1929, tại nhà số 213 Khâm Thiên - Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa Liềm và cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8 năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng họp Đại hội tại Sài Gòn để thông qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban chấp hành Trung ương Đảng. Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt. Những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản. Tháng 9/1929, những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên bố chính thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Chỉ trong bốn tháng, ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời. Điều đó chứng tỏ xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 1. Hội nghị thành lập Đảng. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm về Hương Cảng. Với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản - Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp ngày 06/01/1930 Hội nghị hoàn toàn nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng. Ngày 24/02/1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn, Ban chấp hành Trung ương lâm thời họp và ra quyết nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Nội dung cơ bản như sau: • Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. • Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
- o Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông. o Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. o Về văn hóa, xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Những nhiệm vụ trên đây bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. • Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít hơn mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. • Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đảng cộng sản. • Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này. Nhờ sự thống nhất về tổ chức và có Cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời, Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. 3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta; mở ra thời kỳ mới: đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
- Với sự ra đời của Đảng, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Câu hỏi thảo luận Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập ĐCS ở Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc? Phong trào cách mạng 1930-1935 1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930. Luận cương chính trị của Đảng: a. Hoàn cảnh lịch sử: • Sau Hội nghị thành lập Đảng, Cương lĩnh và điều lệ của Đảng được bí mật đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh và tiến dần lên thành cao trào. • Tháng 04/1930, sau một thời gian học tập ở Liên Xô, đồng chí Trần Phú trở về nước, được bổ sung vào Ban Chấp hành lâm thời và được phân công cùng Ban Thường vụ Trung ương dự thảo Luận cương chính trị của Đảng. Từ ngày 14 đến ngày 30/10/1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp tại Hương Cảng, do đồng chí Trần Phú chủ trì thông qua Luận cương chính trị, Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. b. Nội dung Luận cương chính trị: • Về mâu thuẫn giai cấp: Mâu thuẫn diễn ra gay gắt “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. • Về tính chất cách mạng Đông Dương: Trong lúc đầu sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. • Về nhiệm vụ cách mạng: Sự cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ các di tích phong kiến, thực hành thổ địa triệt để; tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó “vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. • Về lực lượng cách mạng: “Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động
- lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân là động lực mạnh của cách mạng”. • Về phương pháp cách mạng: Lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu “phần ít”, phải lấy những sự chủ yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng. Đến lúc có tình thế cách mạng, Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch, giành lấy chính quyền. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, phải tuân theo khuôn phép nhà binh. • Về lãnh đạo cách mạng: Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một đảng cộng sản có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghiã Mác-Lênin làm nồng cốt. • Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, vì thế, vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp. c. Kết luận: • Luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng ở nước ta mà Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu như: mục đích, tính chất của cách mạng trong giai đoạn đầu là làm cách mạng tư sản dân quyền (tức cách mạng dân tộc dân chủ) với hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, nhằm thực hiện độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân. Cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ lập ra nhà nước công nông, sau đó chuyển thẳng sang làm cách mạng XHCN; giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo; cách mạng Việt Nam liên kết mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa. • Hạn chế của Luận cương chính trị là: không vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp và tay sai của chúng; do đó không đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp. Luận cương không đề ra được một liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Luận cương chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản; phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc; cường điệu mặt hạn chế của họ; chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ vừa và nhỏ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. • Hội nghị đã không đúng khi quyết định thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị hợp nhất thông qua. 2. Phong trào cách mạng những năm 1930 - 1935: a. Cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh:
- • Ngày 01/05/1930, lần đầu tiên nhân dân ta tổ chức ngày Quốc tế lao động. • Sau ngày 01 tháng 05, làn sóng đấu tranh tiếp tục dâng cao. Đến tháng 09, phong trào phát triển đến đỉnh cao với những hình thức đấu tranh quyết liệt. Cuộc biểu tình ngày 12 tháng 09 của 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên bị thực dân Pháp dùng máy bay ném bom làm chết 171 người đã làm cho phong trào cách mạng bùng lên dữ dội. Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, nhiều xã bị tan rã. Trước tình hình đó, các tổ chức đảng ở địa phương chủ động lãnh đạo các ban chấp hành Nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn. Những “khu đỏ” tự do được hình thành. Trên thực tế, trong các khu đỏ tự do, chính quyền cách mạng của nông dân theo hình thức các ủy ban tự quản kiểu Xô Viết đã ra đời và đã thực hiện các biện pháp cách mạng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự ra đời của chính quyền công nông là một xu thế phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam. Nó thể hiện bản chất cách mạng và năng lực sáng tạo của nhân dân ta, chủ yếu là công, nông dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân. b. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh khôi phục và phát triển phong trào cách mạng (1932- 1935): • Tình hình sau cao trào cách mạng 1930-1931. o Đảng ta gặp nhiều khó khăn và tổn thất lớn: sau cao trào 1930- 1931, thực dân Pháp ra sức khủng bố trắng và mở các phiên toà đại hình xử 1.094 án, trong đó có 64 án tử hình, 114 án khổ sai, 420 án lưu đày biệt xứ. Bọn thực dân dùng mọi cực hình để giết hại các chiến sĩ cộng sản. o Trong hoàn cảnh bị khủng bố khốc liệt, đa số đảng viên của Đảng vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản: Trong thời gian bị giam giữ, các chiến sĩ cộng sản vẫn bí mật học tập nâng cao trình độ lý luận Mác-Lênin, đường lối cách mạng của Đảng, tổng kết kinh nghiệm vận động quần chúng. Nhiều tờ báo của các chi bộ nhà tù đã được ấn hành, góp phần mài sắc ý chí chiến đấu cho cán bộ, đảng viên. o Năm 1932, nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số đảng viên còn lại trong nước, ngoài nước đã tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương Đảng. Tháng 06/1932, Ban lãnh đạo Trung ương công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương. Chương trình hành động khẳng định: “Kinh nghiệm hai năm tranh đấu dạy ta rằng con đường giải phóng độc nhất chỉ là con đường võ trang tranh đấu của quần chúng”. Chương trình hành động đề ra 4 yêu cầu trước mắt của đông đảo quần chúng:
- 1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài. 2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình. 3. Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác. 4. Bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối. • Lãnh đạo và tổ chức đấu tranh. o Trong hoàn cảnh mới, Đảng ta đã tổ chức các hội phổ thông công khai như hội cấy, hội gặt, hội đá bóng, hội đọc sách báo, Thông qua những hình thức tổ chức này, Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp với địch. o Đảng ta còn sử dụng báo chí hợp pháp để tuyên truyền đường lối cách mạng. Từ năm 1933 đến năm 1934, trên báo chí hợp pháp đã nổ ra tranh luận giữa hai quan điểm: nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh. Các đảng viên cộng sản đã có nhiều bài bút chiến giàu sức thuyết phục, nêu cao quan điểm nghệ thuật cách mạng - nghệ thuật phục vụ nhân sinh, xây dựng một xã hội mới công bằng và nhân bản. o Sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, của các Đảng cộng sản Liên Xô, Pháp, lúc bấy giờ là nguồn cổ vũ to lớn đối với Đảng và nhân dân ta. Từ ngày 14 đến ngày 26/06/1934, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng và các đại biểu Đảng bộ trong nước họp Hội nghị khẳng định: mặc dù bị khủng bố ác liệt, Đảng vẫn tồn tại, tổ chức Đảng đã phục hồi và được tổ chức thêm ở nhiều nơi, ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. 3. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (03/1935): a. Hoàn cảnh lịch sử: Đầu năm 1935, sau khi hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại từ cơ sở đến Trung ương, Ban lãnh đạo hải ngoại quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Đại hội tiến hành từ ngày 27 đến 31/03/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các Đảng bộ ở trong nước và hoạt động ở nước ngoài. Đại hội thừa nhận Cương lĩnh chính trị (10/1930) và Chương trình hành động (02/1932); khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh để khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng. b. Nội dung Đại hội: • Một là, củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng ở các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền. Đồng thời, phải đưa nông dân, lao động, trí thức cách mạng đã qua thử thách vào Đảng. • Hai là, đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng; chú ý các dân tộc ít người, phụ nữ, binh lính, Củng cố và phát triển các tổ chức quần
- chúng: Đoàn thanh niên cộng sản, cứu tế đỏ, Mặt trận thống nhất phản đế. Đại hội nhấn mạnh: “Thâu phục quảng đại quần chúng là nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời”. • Ba là, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô. Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính; về công tác mặt trận phản đế; công tác vận động các dân tộc ít người; về đội tự vệ, đội cứu tế đỏ Qua 4 năm chống khủng bố trắng, khôi phục và phát triển phong trào, Đảng ta không những đứng vững mà còn được tôi luyện và trưởng thành. Đảng đã chuẩn bị đầy đủ điều kiện cho một cao trào cách mạng mới. Phong trào dân chủ (1936-1939) 1. Nguy cơ chiến tranh của chủ nghĩa phát xít và Đại hội lần thứ 7 của Quốc Tế Cộng Sản: • Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giai cấp tư sản lũng đoạn âm mưu dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang chuẩn bị phát động một cuộc chiến tranh thế giới mới. • Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi. Chúng thực hành chính sách xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác. Chúng nuôi mưu đồ tiêu diệt Liên Xô và đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh trong nước. • Trước tình hình ấy, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản đã được triệu tập tại Mátcơva từ 25/07 đến 20/08/1935. Tham dự Đại hội có 65 đoàn đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân, trong đó có đoàn Đại biểu Đảng cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang học tập và nghiên cứu ở Liên Xô cũng được mời dự Đại hội. • Đại hội vạch rõ những nhiệm vụ của nhân dân thế giới là chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp công nhân phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chống chiến tranh. Đối với các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, Đại hội khẳng định: vấn đề Mặt trận thống nhất chống đế quốc có một tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội đã thông qua Nghị quyết của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản tháng 04/1931, công nhận Đảng cộng sản Đông Dương là bộ phận độc lập của Quốc tế cộng sản. Đồng chí Lê Hồng Phong được Đại hội bầu làm ủy viên chính thức Ban chấp hành Quốc tế cộng sản. 2. Chủ trương mới của Đảng: Căn cứ tình hình thế giới, tình hình thực tế nước ta và căn cứ Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản, tháng 07/1936, đồng chí Lê Hồng Phong
- triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải (Trung Quốc) để xác định chủ trương mới của Đảng. Hội nghị vạch rõ: “Nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến mà Đảng ta đề ra từ khi mới thành lập đến nay vẫn không thay đổi. Nhưng căn cứ vào tình hình mới, Hội nghị xác định mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai. Do đó, tạm thời chưa nêu khẩu hiệu đấu tranh “Đánh đổ đế quốc Pháp” và khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất chia cho dân cày” mà nên “đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình”. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân thống nhất phản đế Đông Dương. Về hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh, Hội nghị chủ trương triệt để lợi dụng những khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức quần chúng, đồng thời củng cố và phát triển tổ chức bí mật của Đảng; Kết hợp những hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bất hợp pháp để phát triển tổ chức của Đảng và Mặt trận, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng. Hội nghị Trung ương tháng 07/1936 đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt; giữa chủ trương mới và hình thức tổ chức đấu tranh mới; giữa củng cố khối liên minh công nông và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; giữa phong trào cách mạng ở Đông Dương và cách mạng Pháp, cách mạng thế giới; giữa vấn đề độc lập dân tộc và vấn đề dân chủ. Tuy vậy, Hội nghị vẫn chưa nêu được khẩu hiệu dân tộc thích hợp, chưa tìm được hình thức Mặt trận phù hợp với mục tiêu đấu tranh mới. 3. Lãnh đạo phong trào dân chủ, dân sinh (1936-1939): Chủ trương đòi tự do, cơm áo, hoà bình đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của nhân dân, làm dấy lên một cao trào cách mạng mới trong cả nước. Nhờ khéo lợi dụng các hình thức đấu tranh hợp pháp nên từ năm 1936 đến giữa năm 1939, phong trào quần chúng đấu tranh theo những khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống, đã phát triển liên tục, rộng rãi khắp cả thành thị và nông thôn. Ngoài các yêu sách chung như: tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí, tự do tổ chức, bỏ thuế thân, thả hết tù chính trị, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp còn đưa ra những yêu sách riêng của mình. Cùng với việc lãnh đạo đấu tranh về kinh tế và chính trị, Đảng chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động, đặc biệt là trên lĩnh vực báo chí công khai để tăng cường ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng. Qua cao trào, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dạn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị và tổ chức, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu.