Giới thiệu học phần Dược lý I - Phần 1
2. CÁC QUÁ TRÌNH DƯỢC ĐỘNG HỌC
2.1. Hấp Thu
Hấp thu là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc vào máu để rồi đi khắp cơ thể, tới nơi tác dụng. Như vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào:
- Độ hoà tan của thuốc: thuốc dùng dưới dạng dung dịch nước dễ hấp thu hơn dạng dầu, dịch treo hoặc dạng cứng
- pH tại chỗ hấp thu vì có ảnh hưởng đến độ ion hoá và độ tan của thuốc.
- Nồng độ của thuốc: nồng độ càng cao càng hấp thu nhanh.
- Tuần hoàn tại vùng hấp thu: càng nhiều mạch, càng hấp thu nhanh.
- Diện tích vùng hấp thu: phổi, niêm mạc ruột có diện tích lớn, hấp thu nhanh.
Từ những yếu tố đó cho thấy đường đưa thuốc vào cơ thể sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu. Ngoại trừ đường tiêm tĩnh mạch, trong quá trình hấp thu vào vòng tuần hoàn, một phần thuốc sẽ bị phá huỷ do các enzym của đường tiêu hoá, của tế bào ruột và đặc biệt là ở gan, nơi có ái lực với nhiều thuốc.
Phần thuốc bị phá huỷ trước khi vào vòng tuần hoàn được gọi là "first pass metabolism" (chuyển hoá do hấp thu hay chuyển hoá qua gan lần thứ nhất vì thường là uống thuốc). Phần vào được tuần hoàn mới phát huy tác dụng dược lý, được gọi là “sinh khả dụng”
Sau đây chúng ta sẽ điểm qua các đường dùng thuốc thông thường và các đặc điểm của chúng.
2.1.1. Qua đường tiêu hoá
- Ưu điểm là dễ dùng vì là đường hấp thu tự nhiên.
- Nhược điểm là bị các enzym tiêu hoá phá huỷ hoặc thuốc tạo phức với thức ăn
làm chậm hấp thu. Đôi khi thuốc kích thích niêm mạc tiêu hoá, gây viêm loét.
2.1.1.1. Qua niêm mạc miệng: Thuốc ngậm dưới lưỡi:
Do thuốc vào thẳng vòng tuần hoàn nhờ hệ thống mạch máu dày đặc bên dưới lưỡi nên không bị dịch vị phá huỷ, không bị chuyển hoá qua gan lần thứ nhất nên sinh khả dụng tương đối cao so với dạng thuốc dùng theo đường uống thông thường khác.
2.1. Hấp Thu
Hấp thu là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc vào máu để rồi đi khắp cơ thể, tới nơi tác dụng. Như vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào:
- Độ hoà tan của thuốc: thuốc dùng dưới dạng dung dịch nước dễ hấp thu hơn dạng dầu, dịch treo hoặc dạng cứng
- pH tại chỗ hấp thu vì có ảnh hưởng đến độ ion hoá và độ tan của thuốc.
- Nồng độ của thuốc: nồng độ càng cao càng hấp thu nhanh.
- Tuần hoàn tại vùng hấp thu: càng nhiều mạch, càng hấp thu nhanh.
- Diện tích vùng hấp thu: phổi, niêm mạc ruột có diện tích lớn, hấp thu nhanh.
Từ những yếu tố đó cho thấy đường đưa thuốc vào cơ thể sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu. Ngoại trừ đường tiêm tĩnh mạch, trong quá trình hấp thu vào vòng tuần hoàn, một phần thuốc sẽ bị phá huỷ do các enzym của đường tiêu hoá, của tế bào ruột và đặc biệt là ở gan, nơi có ái lực với nhiều thuốc.
Phần thuốc bị phá huỷ trước khi vào vòng tuần hoàn được gọi là "first pass metabolism" (chuyển hoá do hấp thu hay chuyển hoá qua gan lần thứ nhất vì thường là uống thuốc). Phần vào được tuần hoàn mới phát huy tác dụng dược lý, được gọi là “sinh khả dụng”
Sau đây chúng ta sẽ điểm qua các đường dùng thuốc thông thường và các đặc điểm của chúng.
2.1.1. Qua đường tiêu hoá
- Ưu điểm là dễ dùng vì là đường hấp thu tự nhiên.
- Nhược điểm là bị các enzym tiêu hoá phá huỷ hoặc thuốc tạo phức với thức ăn
làm chậm hấp thu. Đôi khi thuốc kích thích niêm mạc tiêu hoá, gây viêm loét.
2.1.1.1. Qua niêm mạc miệng: Thuốc ngậm dưới lưỡi:
Do thuốc vào thẳng vòng tuần hoàn nhờ hệ thống mạch máu dày đặc bên dưới lưỡi nên không bị dịch vị phá huỷ, không bị chuyển hoá qua gan lần thứ nhất nên sinh khả dụng tương đối cao so với dạng thuốc dùng theo đường uống thông thường khác.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giới thiệu học phần Dược lý I - Phần 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
gioi_thieu_hoc_phan_duoc_ly_i.pdf
Nội dung text: Giới thiệu học phần Dược lý I - Phần 1
- GIỚI THIỆU HỌC PHẦN DƯỢC LÝ I Đối tượng: CĐ Dược - Số tín chỉ : 3(2/1) - Số tiết: 60 tiết + Lý thuyết: 30 tiết + Thực hành: 30 tiết + Tự học: 75 giờ - Thời điểm thực hiện: Học kỳ IV MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1. Trình bày và phân tích được động học của các quá trình hấp thu, phân bố, chuyển hóa và thải trừ của thuốc. 2. Trình bày và phân tích được các cách tác dụng của thuốc và các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc. 3. Phân tích được đặc điểm dược động học, tác dụng, cơ chế tác dụng, tác dụng không mong muốn, tương tác thuốc, chỉ định, chống chỉ định, chế phẩm và liều dùng của một số thuốc thuộc các nhóm thuốc tác dụng trên các cơ quan. 4. Nhận dạng và hướng dẫn sử dụng được một số thuốc - biệt dược của một số nhóm thuốc tác dụng trên các cơ quan 5. Rèn luyện được thái độ thận trọng, tỉ mỉ, chính xác, an toàn trong tư vấn sử dụng thuốc cho người bệnh 6. Thể hiện được thái độ cầu thị trong việc cập nhật các kiến thức dược học mới NỘI DUNG HỌC PHẦN STT Tên bài Trang LÝ THUYẾT 1 Bài mở đầu 4 Dược động học của thuốc 2 Dược lực học 21 3 Thuốc tác dụng trên hệ thần kinh trung ương 32 4 Thuốc tác dụng trên hệ thần kinh thực vật 58 5 Thuốc chống viêm Phi Steroid và thuốc điều trị gout 71 6 Vitamin 84 7 Thuốc kháng sinh 100 THỰC HÀNH 1 Thuốc tác dụng trên hệ thần kinh trung ương 138 2 Các thuốc tác dụng trên hệ thần kinh thực vật 160 3 Thuốc chống viêm phi steroid 170 4 Vitamin 178 5 Thuốc kháng sinh 189 Tổng số 199 1
- ĐÁNH GIÁ - Hình thức thi: Tự luận - Thang điểm: 10 - Cách tính điểm + Điểm thường xuyên: 01 điểm hệ số 1 + Điểm địnhl kỳ: 01 điểm hệ số 2 trọng số 30% + Điểm kết thúc học phần: 01 bài kiểm tra tự luận trọng số 70% 2
- LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, trên thị trường Việt Nam rất nhiều mặt hàng thuốc đang lưu hành. Các thầy thuốc luôn đứng trước thử thách rất lớn trong việc lựa chọn thuốc cho điều trị nhằm thực hiện phương châm "sử dụng thuốc an toàn và hợp lý". Thầy thuốc điều trị không "chạy" theo từng tên thuốc mà cần phải hiểu rõ tác dụng của từng nhóm thuốc để có hướng sử dụng cho đúng. Cuốn sách này được biên soạn nhằm cung cấp cho sinh viên Cao đẳng Dược những kiến thức cơ bản về cơ chế tác dụng của từng nhóm thuốc phân theo tác dụng sinh lý - bệnh lý - điều trị học. Trên cơ sở hiểu rõ cơ chế tác dụng, các thầy thuốc sẽ hiểu rõ các áp dụng lâm sàng của thuốc như chỉ định, chống chỉ định, tác dụng không mong muốn. Từ những kiến thức cơ bản này, trong quá trình thực hành, cùng với sự phát triển của các thuốc mới, người đọc hoàn toàn có thể hiểu thêm đặc điểm của các thuốc cụ thể để sử dụng được "an toàn và hợp lý". Khoa học kỹ thuật đang không ngừng phát triển. Các loại thuốc mới đang liên tục xuất hiện. Thậm chí còn có thuốc bị loại trừ sau vài năm được phép lưu hành. Vì vậy các thầy thuốc cần luôn cập nhật thông tin bằng các nguồn khác nhau. Cuốn sách giáo khoa không thể làm được việc này vì sau vài năm mới tái bản một lần. Chúng tôi cố gắng biên soạn những kiến thức dược lý học cơ bản cho sinh viên theo đúng chương trình quy định. Những kiến thức này đủ để làm cơ sở cho sinh viên dược cao đẳng thực hành và tự học ở trường và cả sau khi ra trường. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của đông đảo bạn đọc và các thầy cô trong nhà trường. BỘ MÔN HÓA DƯỢC- DƯỢC LÝ 3
- Bài 1 BÀI MỞ ĐẦU VÀ DƯỢC ĐỘNG HỌC CỦA THUỐC MỤC TIÊU 1. Phân biệt được vai trò của môn dược lý học và mối quan hệ của các môn học khác với môn Dược lý. 2. Phân tích được các quá trình hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ thuốc trong cơ thể. 3. Phân tích được ý nghĩa của sự thay đổi dược động học của thuốc đến tác dụng của thuốc. 4. Vận dụng được các kiến thức đã học để tư vấn sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả và hợp lý. NỘI DUNG I. BÀI MỞ ĐẦU Dược lý học (Pharmacology) theo tu từ học là môn khoa học về thuốc. Nhưng để tránh ý nghĩa quá rộng của từ này, Dược lý học chỉ bao hàm mọi nghiên cứu về sự tương tác của thuốc với các hệ sinh học. Thuốc là các chất hoặc hợp chất có tác dụng điều trị hoặc dự phòng bệnh tật cho người và súc vật, hoặc dùng trong chẩn đoán bệnh ở lâm sàng, dùng để khôi phục, điều chỉnh các chức phận của cơ quan. Thuốc có thể có nguồn gốc từ thực vật (cây Canhkina, cây Ba gạc), từ động vật (insulin chiết xuất từ tụy tạng bò, lợn), từ khoáng vật, kim loại (kaolin, thuỷ ngân, muối vàng) hoặc là các chất bán tổng hợp, tổng hợp hóa học (ampicilin, sulfamid). Đầu tiên, thuốc phải được nghiên cứu trên súc vật thực nghiệm để xác định được tác dụng, cơ chế tác dụng, độc tính, liều điều trị, liều độc, tác dụng gây đột biến, gây quái thai, gây ung thư Đó là đối tượng của môn Dược lý học thực nghiệm (Experimental pharmacology). Những nghiên cứu này nhằm đảm bảo an toàn đến mức tối đa cho người dùng thuốc. Chỉ sau khi có đủ số liệu đáng tin cậy về thực nghiệm trên súc vật mới được áp dụng cho người. Tuy nhiên, súc vật phản ứng với thuốc không hoàn toàn giống người; vì vậy sau giai đoạn thực nghiệm trên súc vật, thuốc phải được thử trên nhóm người tình nguyện, trên các nhóm bệnh nhân tại các cơ sở khác nhau, có so sánh với các nhóm dùng thuốc kinh điển hoặc thuốc vờ (placebo), nhằm đánh giá lại các tác dụng đã gặp trong thực nghiệm và đồng thời phát hiện các triệu chứng mới, nhất là các tác dụng không mong muốn chưa thấy hoặc không thể thấy được trên súc vật (buồn nôn, chóng mặt, nhức đầu, phản ứng dị ứng v.v .). Những nghiên cứu này là mục tiêu của môn Dược lý học lâm sàng (Clinical pharmacology). Dược lý học luôn dựa trên những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học có liên quan như sinh lý, sinh hóa, sinh học, di truyền học, bào chế, hóa dược, sinh lý... để ngày càng hiểu sâu về cơ chế phân tử của thuốc, giúp cho nghiên cứu sản xuất các thuốc mới ngày càng có tính đặc hiệu, không ngừng nâng cao hiệu quả điều trị. Dược lý học còn chia thành:Dược lực học và Dược động học của thuốc Mỗi thuốc, tuỳ theo liều dùng sẽ có tác dụng sớm, đặc hiệu trên một mô, một cơ quan hay một hệ thống của cơ thể, được sử dụng để điều trị bệnh, được gọi là tác dụng chính. Ngoài ra, mỗi thuốc còn có thể có nhiều tác dụng khác, không được dùng để điều trị, trái lại còn gây phiền hà cho người dùng thuốc (buồn nôn, chóng mặt, đánh 4
- trống ngực ), được gọi là tác dụng phụ, tác dụng không mong muốn hay tác dụng ngoại ý. Tất cả các tác dụng đó là đối tượng nghiên cứu của Dược lực học. Dược động học (Pharmacokinetics) nghiên cứu về tác động của cơ thể đến thuốc, đó là động học của sự hấp thu, phân phối, chuyển hóa và thải trừ thuốc. Người thầy thuốc rất cần những thông tin này để biết cách chọn đường đưa thuốc vào cơ thể (uống, tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch ), số lần dùng thuốc trong ngày, liều lượng thuốc tuỳ theo từng trường hợp (tuổi, trạng thái bệnh, trạng thái sinh lý ). Dược lý thời khắc (Chronopharmacology) nghiên cứu ảnh hưởng của nhịp sinh học trong ngày, trong năm đến tác động của thuốc. Hoạt động sinh lý của người và động vật chịu ảnh hưởng rõ rệt của các thay đổi của môi trường sống như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm Các hoạt động này biến đổi nhịp nhàng, có chu kỳ, gọi là nhịp sinh học (trong ngày, trong tháng, trong năm). Tác động của thuốc cũng có thể thay đổi theo nhịp này. Người thầy thuốc cần biết để chọn thời điểm và liều lượng thuốc tối ưu. Dược lý di truyền (Pharmacogenetics) nghiên cứu những thay đổi về tính cảm thụ của cá thể, của gia đình hay chủng tộc với thuốc do nguyên nhân di truyền. Ví dụ người thiếu G6PD rất dễ bị thiếu máu tan máu do dùng sulfamid, thuốc chống sốt rét ngay cả với liều điều trị thông thường. Có thể nói Dược lý di truyền là môn giao thoa giữa Dược lý - Di truyền - Hóa sinh và Dược động học. Dược lý cảnh giác hay Cảnh giác thuốc (Pharmacovigilance) chuyên thu thập và đánh giá một cách có hệ thống các phản ứng độc hại có liên quan đến việc dùng thuốc trong cộng đồng. Phản ứng độc hại là những phản ứng không mong muốn (ngoại ý) xảy ra một cách ngẫu nhiên với các liều thuốc vẫn dùng để dự phòng, chẩn đoán hay điều trị bệnh. Phenacetin là thuốc hạ sốt, phải 75 năm sau khi dùng phổ biến mới phát hiện được tác dụng gây độc của thuốc; sau 30 năm mới thấy được chứng suy giảm bạch cầu của amidopyrin.Những môn học trên là những chuyên khoa sâu của Dược lý học. Người thầy thuốc càng biết rõ về thuốc càng nắm được “nghệ thuật” kê đơn an toàn và hợp lý. Vì điều kiện thời gian và khuôn khổ, cuốn sách này chủ yếu cung cấp những kiến thức về dược lực học, dược động học và với một số thuốc đặc biệt, có lưu ý đến dược lý di truyền, dược lý cảnh giác II. DƯỢC ĐỘNG HỌC CỦA THUỐC Dược động học (Pharmacokinetics) nghiên cứu các quá trình chuyển vận của thuốc từ lúc được hấp thu vào cơ thể cho đến khi bị thải trừ hoàn toàn. Các quá trình đó là: - Sự hấp thu (Absorption) - Sự phân bố (Distribution) - Sự chuyển hoá (Metabolism) - Sự thải trừ (Excretion). Để thực hiện được những quá trình này, thuốc phải vượt qua các màng tế bào. Vì thế, trước khi nghiên cứu 4 quá trình này, cần nhắc lại các cơ chế vận chuyển thuốc qua màng sinh học và các đặc tính lý hoá của thuốc và màng sinh học có ảnh hưởng đến các quá trình vận chuyển đó. 1. VẬN CHUYỂN THUỐC QUA MÀNG SINH HỌC 1.1. Cấu trúc màng sinh học: Thuốc muốn di chuyển từ vị trí đưa thuốc vào máu hoặc từ máu vào tổ chức, từ tổ chức thải ra ngoài... đều phải vượt qua hàng rào sinh học - đó là màng tế bào. Có nhiều loại màng tế bào khác nhau nhưng chúng đều có những thuộc tính và chức năng cơ bản giống nhau. Màng tế bào rất mỏng, có bề dày từ 7.5-10 nm, có tính đàn hồi và có tính thấm chọn lọc. Thành phần cơ bản của màng là protein và lipid. Màng được chia thành 3 lớp. 5
- + Hai lớp ngoài gồm các phân tử protein và một số enzym, đặc biệt là enzyme phosphatase + Lớp giữa gồm các phân tử phospholipids Chính bản chất lipid của màng cản trở sự khuếch tán qua màng của các chất tan trong nước của các ion..v.v..Ngược lại các chất tan trong lipid dễ dàng chuyển qua màng. Do đặc điểm cấu trúc của các phân tử protein đã tạo thành các kênh (canal) chứa đầy nước xuyên qua màng. Vì vậy các phân tử nhỏ tan trong nước dễ dàng khuếch tán qua màng. 1.2. Các cơ chế vận chuyển thuốc qua màng Hình 1.1. Cơ chế vận chuyển thuốc qua màng Có 3 cơ chế chính vận chuyển thuốc qua màng - Khuếch tán thụ động - Vận chuyển thuận lợi và vận chuyển tích cực (Hấp thụ thụ động và hấp thụ chủ động) - Lọc 1.2.1. Khuếch tán thụ động. Khuếch tán thụ động hay còn gọi là khuếch tán đơn thuần hoặc là quá trình thuốc khuếch tán từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp . Mức độ và tốc độ hấp thu tỉ lệ thuận với + Sự chênh lệch về nồng độ thuốc giữa hai bên màng + Diện tích bề mặt của màng. + Hệ số khuếch tán của thuốc. Và tỉ lệ nghịch với bề dày của màng. Hình 1.2. Quá trình khuếch tán thụ động 6
- Vì màng sinh học được cấu tạo bởi những phân tử lipoprotein nên những thuốc có hệ số phân bố lipid/nước lớn sẽ khuếch tán qua màng. Đối với những thuốc có bản chất là acid yếu hoặc base yếu mức độ khuếch tán phụ thuộc vào pKa của chúng và phụ thuộc vào pH của môi trường vì hai yếu tố này quyết định mức độ phân ly của thuốc. Với các chất có bản chất acid yếu hoặc base yếu, khả năng khuyếch tán phụ thuộc hằng số phân ly (pKa). Độ phân ly của các chất có bản chất acid yếu và kiềm yếu tuân theo phương trình Henderson - Hasselbach: p.tu * Với các acid yếu: pKa pH lg Ion Ion * Với các base yếu: pKa pH lg p.tu Theo phương trình trên ta nhận thấy: - Các chất có bản chất acid yếu nếu muốn hấp thu tốt cần môi trường có pH nhỏ hơn pKa nhưng nếu muốn bài xuất tốt lại cần môi trường có pH lớn hơn pKa. Ví dụ: phenobarbital có pKa = 7,2. Trong môi trường pH = 6,2, nồng độ phân tử sẽ lớn hơn nồng độ ion 10 lần còn trong môi trường pH = 8,2, nồng độ ion lại lớn hơn nồng độ phân tử 10 lần. Khả năng qua màng phụ thuộc nồng độ phân tử vì chỉ những chất không phân ly mới tan trong lipid, như vậy trong trường hợp pH < pKa, thuốc sẽ hấp thu tốt còn pH > pKa thuốc sẽ thải trừ tốt. - Các chất có bản chất base yếu muốn hấp thu tốt cần môi trường có pH lớn hơn pKa nhưng nếu muốn thải trừ tốt lại cần môi trường có pH nhỏ hơn pKa. Bảng 1.1. pH của một số ngăn sinh lý Ngăn pH Huyết tương 7,35 - 7,45 Nước tiểu 5,5 - 7,8 Dịch dạ dày 1,4 Bào tương 7,2 - 7,4 Bàng quang 4,0 - ,06 Mitochondries ~ 8 Khả năng hấp thu theo cơ chế khuyếch tán thụ động thuận theo gradient nồng độ nghĩa là chuyển từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp. Chính vì vậy khi thay đổi pH ở 2 bên màng, quá trình khuyếch tán của thuốc thay đổi đáng kể. 1. 2.2. Khuếch tán thuận lợi và vận chuyển tích cực (Hấp thụ thụ động và hấp thụ chủ động) Hình 1.3. Quá trình hấp thụ thụ động và hấp thụ chủ động 7
- 1.2.2.1. Khuếch tán thuận lợi Là khuếch tán có sự tham gia của chất vận chuyển hay còn gọi là chất mang. Giống như là khuếch tán đơn thuần động lực của khuếch tán thuận lợi là sự chênh lệch nồng độ của thuốc giữa hai bên màng (gradient nồng độ). Thuốc được gắn với một protein đặc hiệu (chất mang) và vận chuyển từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp qua các ống chứa nước của màng. Vì có tính đặc hiệu nên chất mang chỉ gắn với một số thuốc nhất định và sẽ đạt trạng thái bão hoà khi chất mang không còn các vị trí liên kết tự do. 1.2.2.2.Vận chuyển tích cực. Là loại vận chuyển đặc biệt, thuốc được chuyển qua màng nhờ chất mang. Vận chuyển tích cực có một số đặc điểm sau. - Do có chất mang nên thuốc có thể vận chuyển ngược với bậc thang nồng độ và không tuân theo định luật Fick. - Đòi hỏi phải có năng lượng cung cấp. Năng lượng này được giải phóng từ quá trình chuyển ATP thành ADP - Vận chuyển có tính chọn lọc . - Có sự cạnh tranh giữa các chất có câú trúc hoá học tương tự. - Bị ức chế không cạnh tranh bởi những chất độc chuyển hoá do làm hao kiệt năng lượng. Hình 1.4. Vận chuyển tích cực VD : Sự vận chuyển của các thuốc thuộc nhóm glicosid tim, các acid amin. 1.2.3. Lọc. Vận chuyển thuốc theo các “kênh” protein gọi là lọc. Những thuốc vận chuyển theo cơ chế này là những chất tan trong nước, có phân tử lượng nhỏ (< 100). Khả năng qua màng phụ thuộc 3 yếu tố: - Kích thước phân tử thuốc. - Áp lực thuỷ tĩnh 2 bên màng (áp lực lọc). - Kích thước lỗ màng. Khả năng lọc mạnh nhất ở màng cầu thận vì tại đây áp lực lọc rất cao và kích thước lỗ màng lớn hơn ở các tổ chức khác. Mạng mao mạch cũng có khả năng lọc tốt với nhiều chất còn màng tế bào có sức lọc kém hơn cả. Lọc không được coi là khuyếch tán vì khả năng thấm ở đây có tính chọn cao do tính đa dạng về đường kính của kênh, về hình dáng, về điện tích ở mặt trong kênh. 8
- 2. CÁC QUÁ TRÌNH DƯỢC ĐỘNG HỌC 2.1. Hấp Thu Hấp thu là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc vào máu để rồi đi khắp cơ thể, tới nơi tác dụng. Như vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào: - Độ hoà tan của thuốc: thuốc dùng dưới dạng dung dịch nước dễ hấp thu hơn dạng dầu, dịch treo hoặc dạng cứng - pH tại chỗ hấp thu vì có ảnh hưởng đến độ ion hoá và độ tan của thuốc. - Nồng độ của thuốc: nồng độ càng cao càng hấp thu nhanh. - Tuần hoàn tại vùng hấp thu: càng nhiều mạch, càng hấp thu nhanh. - Diện tích vùng hấp thu: phổi, niêm mạc ruột có diện tích lớn, hấp thu nhanh. Từ những yếu tố đó cho thấy đường đưa thuốc vào cơ thể sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu. Ngoại trừ đường tiêm tĩnh mạch, trong quá trình hấp thu vào vòng tuần hoàn, một phần thuốc sẽ bị phá huỷ do các enzym của đường tiêu hoá, của tế bào ruột và đặc biệt là ở gan, nơi có ái lực với nhiều thuốc. Phần thuốc bị phá huỷ trước khi vào vòng tuần hoàn được gọi là "first pass metabolism" (chuyển hoá do hấp thu hay chuyển hoá qua gan lần thứ nhất vì thường là uống thuốc). Phần vào được tuần hoàn mới phát huy tác dụng dược lý, được gọi là “sinh khả dụng” Sau đây chúng ta sẽ điểm qua các đường dùng thuốc thông thường và các đặc điểm của chúng. 2.1.1. Qua đường tiêu hoá - Ưu điểm là dễ dùng vì là đường hấp thu tự nhiên. - Nhược điểm là bị các enzym tiêu hoá phá huỷ hoặc thuốc tạo phức với thức ăn làm chậm hấp thu. Đôi khi thuốc kích thích niêm mạc tiêu hoá, gây viêm loét. 2.1.1.1. Qua niêm mạc miệng: Thuốc ngậm dưới lưỡi: Do thuốc vào thẳng vòng tuần hoàn nhờ hệ thống mạch máu dày đặc bên dưới lưỡi nên không bị dịch vị phá huỷ, không bị chuyển hoá qua gan lần thứ nhất nên sinh khả dụng tương đối cao so với dạng thuốc dùng theo đường uống thông thường khác. 2.1.1.2. Thuốc dùng theo đường uống Thuốc sẽ qua miệng, dạ dày, thực quản và qua ruột với các đặc điểm sau: Sau khi uống, thuốc từ khoang miệng đi nhanh qua thực quản khỏang 10 giây đối với chất rắn, 1-2 giây đối với chất lỏng rồi chuyển xuống dạ dày. * Ở dạ dày: - Có pH = 1 - 3 nên chỉ hấp thu các acid yếu, ít bị ion hoá, như aspirin, phenylbutazon, barbiturat. - Nói chung ít hấp thu vì niêm mạc ít mạch máu, lại chứa nhiều cholesterol, thời gian thuốc ở dạ dày không lâu. - Khi đói hấp thu nhanh hơn, nhưng dễ bị kích thích. * Ở ruột non: Niêm mạc ruột non là nơi hấp thu tốt nhất trong số các niêm mạc đường tiêu hoá và hầu hết các thuốc được hấp thu ở đây vì có một số đặc điểm sau: - Diện tích tiếp xúc lớn. Ruột non bao gồm tá tràng, hỗng tràng và hồi tràng. Trên niêm mạc ruột non bắt đầu từ hỗng tràng kéo dài xuống cách hồi tràng 60-70 cm có những van hình liềm. Trên niêm mạc và trên những van ngang này có rất nhiều nhung mao (mỗi mm niêm mạc có khoảng 20-40 nhung mao). Tổng diện tích tiếp xúc của các nhung mao khoảng 40-50 m2. Bờ tự do của các tế bào biểu mô nhung mao lại chia thành các vi nhung mao nên diện tích hấp thu của niêm mạc ruột non được tăng lên rất nhiều. - Dải pH từ acid nhẹ đến kiềm nhẹ thích hợp cho việc hấp thu các thuốc có tính kiềm hoặc acid khác nhau. 9
- Ở tá tràng: Một số thuốc được hấp thu như penicillin, griseofulvin ngoài ra một số chất khác cũng được hấp thu ở đây như acid amin, chất điện giải, muối sắt. Tuy nhiên mức độ hấp thu ở tá tràng ngắn, thời gian thuốc đi qua nhanh (chỉ vào khoảng 2- 10 giây). Ở hỗng tràng: thời gian thuốc lưu lại hỗng tràng tương đối lâu (2-2.5giờ), diện tích tiếp xúc lớn. Ngoài ra với những dạng thuốc ở dạng viên bao đặc biệt là viên bao tan trong ruột sẽ tạo nồng độ cao ở ruột nên một số thuốc hấp thu tốt qua niêm mạc hỗng tràng như amphetamine, ephedrine, atropine, các sulfonamide, các salicylat, benzoat, các barbiturat Ở hồi tràng thuốc lưu lại cũng khá lâu (3-6 giờ) nên những phần thuốc còn lại sau khi qua hỗng tràng phần lớn được hấp thu ở đây. Ở ruột non có các dịch tiêu hoá như dịch tuỵ (chứa enzyme amylase, lipase, esterase, chymotrypsin..), dịch ruột (chứa natri hydrocarbonat, mucin, lipase, invertin .) đặc biệt là dịch mật trong đó có các acid mật, muối mật có tác dụng nhũ hoá các chất tan trong lipid, tăng khả năng hấp thu các vitamin tan trong dầu như vitamin A. vitamin D, vitamin E, vitaminK .. - Thuốc ít bị ion hoá nhưng nếu ít hoặc không tan trong lipid (sulfaguanidin, streptomycin) thì ít được hấp thu. - Thuốc mang amin bậc 4 sẽ bị ion hoá mạnh khó hấp thu, ví dụ các loại cura. - Các anion sulfat không được hấp thu - MgSO4, Na2SO4 chỉ có tác dụng tẩy. 2.1.1.3. Hấp thu thuốc qua niêm mạc ruột già Sự hấp thu qua niêm mạc ruột già kém hơn nhiều so với qua niêm mạc ruột non. Chức năng chủ yếu của niêm mạc ruột già là hấp thu nước và Na+, Cl-, K+ và một số khoáng chất. Đặc biệt phần cuối ruột già (trực tràng) có khả năng hấp thu thuốc tốt hơn vì có hệ tĩnh mạch phong phú. Tĩnh mạch trực tràng giữa và tĩnh mạch trực tràng dưới đổ máu về tĩnh mạch chủ dưới rồi về tim không qua gan. Tĩnh mạch trực tràng trên đổ máu về tĩnh mạch cửa, qua gan. Như vậy tuỳ theo khi dùng thuốc nằm ở phần nào của trực tràng mà nó có thể vào thẳng tĩnh mạch chủ dưới không qua gan hoặc phải qua gan (bị chuyển hoá bước một ở gan) Dùng thuốc qua đường trực tràng ngoài mục đích tác dụng tại chỗ (điều trị táo bón, trĩ, viêm trực tràng kết .v..v ) còn dùng được để có tác dụng toàn thân như thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc hạ sốt, giảm đau.v v Người ta còn dùng đường trực tràng trong những trường hợp không uống được như hôn mê, tắc ruột, co thắt thực quản. hoặc thuốc có mùi vị khó chịu 2.1.2. Thuốc tiêm - Tiêm dưới da: do có nhiều sợi thần kinh cảm giác nên đau, ít mạch máu nên thuốc hấp thu chậm - Tiêm bắp: khắc phục được hai nhược điểm trên của tiêm dưới da - một số thuốc có thể gây hoại tử cơ như ouabain, calci clorid thì không được tiêm bắp. - Tiêm tĩnh mạch: thuốc hấp thu nhanh, hoàn toàn, có thể điều chỉnh liều được nhanh. Dùng để tiêm các dung dịch nước hoặc các chất kích ứng mà không thể tiêm bắp được, vì lòng mạch ít nhạy cảm và máu pha loãng thuốc nhanh nếu tiêm chậm. Thuốc tan trong dầu, thuốc làm kết tủa các thành phần của máu hay thuốc làm tan hồng cầu đều không được tiêm mạch máu. 10