Đề tài Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với một số sự vật hiện tuợng quá trình khác nhau.Mỗi sự vật hiện tuợng đó được gọi là một cái riêng ,đồng thời chúng ta cũng thấy giữa chung lại có mặt giống nhau tưc là tồn tại cái chung giữa chúng .
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_moi_quan_he_giua_cai_rieng_va_cai_chung_va_van_dung_t.doc
Nội dung text: Đề tài Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta
- nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nuớc đã được thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. • Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế chính là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị trường TBCN. 3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: 3.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế giới: Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng dư, quy luật lưu thông tiền tệ Các loại thị trường, các mối quan hệ thị trường được phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện trình độ cao trong việc phân công lao động thành nhiều ngành nghề. Sự khác biệt về sở hữu tài sản đã được chấp nhận (không còn chỉ chấp nhận hình thức sở hữu nhà nước, tập thể như trước) và lợi nhuận trở thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành một lớp người mới năng động hơn, bám sát thị trường hơn và "biết làm kinh tế hơn". ở nước ta hiện nay cũng hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế thị trường: tâm lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, sự phân cực giàu nghèo quá mức, kinh tế phát triển mất cân đối . Kinh tế thị trường nước ta cũng có sự quản lý của nhà nước 11
- để khống chế, giảm bớt những khuyết tật đó cùng những tác hại của nó. Nhưng tuy nhiên, những khuyết tật đó vẫn còn tồn tại âm ỉ trong xã hội và trong suy nghĩ của một số người. Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. 3.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam: Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con người. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, không giản đơn chỉ xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quyết đồng bộ từ vấn đề sở hữu, quản lý, phân phối; tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế phát triển. Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; luôn giữ vững định hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định về mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp. Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là một công cụ, giải pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với việc sử dụng động lực của kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển lực lượng sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là những yếu kém về quản lý và phân phối, xây dựng quan hệ con người với con người, một xã hội giàu tình thương và lòng nhân ái; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn. 12
- Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển nhưng không cạnh tranh dã man; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân cực giàu nghèo, gia tăng về mức sống nhưng vẫn giữ gìn được đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong quá trình phát triển, kinh tế nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại, khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng dẫn cac thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng. Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ sỏ khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp, đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Ta chủ trương chống bóc lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Tuy nhiên, để có động lực cho sự phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích luỹ, sáng kiến cá nhân, chấp nhận phân hoá do lao động sáng tạo (nhưng kiên quyết xoá bỏ phân hoá do bất công). Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Kết quả là hiện nay, trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mang tính tự túc là chủ yếu, cơ sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp 400 USD/ người, trình độ quản lý kinh tế còn non yếu, khả năng cạnh tranh kém. Do vậy mà ta cần có thời gian làm quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý và phát triển kinh tế. Không chỉ có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài. Do hai cuộc chiến tranh đó mà cơ sở hạ tầng vốn đã thấp lại còn bị tàn phá nặng nề. Ta không đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể bước 13
- ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với các công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã có tới ba thế kỷ tích luỹ. Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối loạn và nhiều yếu tố tự phát. Ngoài ra thị trường ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình thức thị trường còn thiếu hoặc mới chỉ ở dạng manh nha như thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động , nên chưa thể thực sự hoà nhập với thị trường thế giới. Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo léo cao như trạm khắc, đan đặc biệt là những thành phần kinh tế truyền thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài khảm trai Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là lịch sử của những cuộc chiến tranh chống xâm lược mà không có trang nào về việc phát triển kinh tế, trong vốn từ truyền thông dường như rất xa lạ với thuật ngữ "làm kinh tế". Ngoài ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người thuộc "thế hệ cũ"- thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ "dị ứng" với kinh tế thị trường, coi kinh tế thị trường là một thứ gì đó rất xấu xa mà mình không thể chấp nhận, và làm theo được; và họ cũng không đủ năng động để thích ứng với tốc độ phát triển của kinh tế thị trường. Quan tâm đến các vấn đề chính sách xã hội, bù đắp những tổn thất cho những người, gia đình có công với cách mạng, thành lập những làng tình thương giúp đỡ nhiều người không nơi nương tựa , kiểm soát, giảm thiểu những mặt tiêu cực so kinh tế thị trường gây ra; đó là những biện pháp giảm khuyết tật xã hội của kinh tế thị trường mà nhà nước ta đã thực hiện. Nhờ đó, nhà nước không còn là "kẻ gác cổng trung thành cho sở hữu tư nhân" mà đã trở thành một lực lượng quan trọng trong việc điều tiết xã hội, khống chế khuyết tật xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới, ta luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc. 3.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại: Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng động, tinh tế, nhạy cảm( đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm tám mươi. 14
- Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng( con người, tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử ) củaViệt nam mà nền kinh tế cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể: • So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. • Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến nay ta đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. • Theo số liệu thu thập được, ước tính chỉ số GNP của Việt nam đã tăng đáng kể sau vài năm đổi mới: Chỉ tiêu 1971 1983 1986 1996 Thu nhập quốc dân (tỷ đô la) 4,97 5,14 5,78 12,46 Trên đầu người 101 94 101 175 Những ước tính GNP của Việt nam trước và sau đổi mới ( Nhà xuất bản thống kê 1996) Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang kiểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại, bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc lợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội 3.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng củaViệt Nam Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất nghèo nàn. Mặt khác, có thể nói lịch sử 4000 năm của nước ta là lịch sử của những cuộc chiến tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm mà không phải là lịch sử của những quá trình phát triển kinh tế. Cộng thêm với cơ chế bao cấp nhà nước ta áp dụng sau chiến tranh đã khiến cho nền kinh tế nước ta vốn đã bị tàn phá nặng nề còn "chây lười", ỷ lại vào nguồn tài trợ của nước ngoài. Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người. Xuất phát từ cơ sở vật 15
- chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu quả đó, nền kinh tế thị trường nước ta có trình độ phát triển thấp, cơ cấu quản lý còn non yếu. Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so với thế giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của các nước phát triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế thị trường hiện đại như là hướng phát triển kinh tế thị trường chung của toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế thị trường hiện đại. Nhưng muốn "đi tắt" được như vậy đòi hỏi ta phải chấp nhận những thách thức rất gay gắt, và sự nỗ lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp dụng những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao động cả về số lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta phải đào tạo được "lớp người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không cảm thấy lạ lẫm với những máy móc hiện đại, đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học, giáo dục đào tạo, cũng như có những chính sách phát hiện, nuôi dưỡng và giữ gìn nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. Nước ta có vị trí vô cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp được thế giới công nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao thông vận tải và du lịch là rất lớn. Nhiều nước nói rằng họ "thèm" được có điều kiện như Việt nam về vị trí địa lý, và nếu có được thì họ sẽ thu về một doanh thu khổng lồ từ ngành du lịch. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch ở nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra một yêu cầu nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: phải đẩy mạnh phát triển du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình, tích cực thu ngoại tệ từ ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều ngành nghề khác trong nền kinh tế. Người Việt nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ chẳng hạn. Nhiều nước tỏ ra ưa chuộng hàng thủ công của ta, muốn đặt hàng cùng ta nhưng do hàng rào thuế quan, phong cách quản lý gây khó khăn, cùng với việc "ngại" áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất truyền thống, khiến cho lượng hàng sản xuất ra ít, không đủ trang trải cho những lệ phí phải chịu do thuế quan nên ta đã mất nhiều hợp đồng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề thủ công như Đảng ta đã dự kiến đòi hỏi một sự đổi mới toàn diện trong cách làm việc của những thợ giỏi, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, không chỉ đơn thuần làm bằng 16
- tay như trước; đồng thời phải làm giảm sự rối rắm trong hàng rào thuế quan, gây cản trở cho sự đầu tư của nước ngoài vào Việ nam. Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trò chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại vào nhà nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Điều này đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, không thể giữ vai trò chủ đạo như trước. Theo thống kê, hàng năm tuy 75% số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nhà nước, và chỉ có 25% dành cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang lại của hai thành phần kinh tế này chỉ chênh lệch rất nhỏ so với tỷ lệ vốn đầu tư. Trong những điều kiện mới, ta buộc phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất làm việc của doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải trở nên năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn và quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn thì mới có thể tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, định hướng như trước. Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết lập luật pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tuân theo pháp luật, sông văn minh, có văn hóa, và tạo một môi trường cạnh tranh công bằng, lạnh mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh. Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản va có sự quản lý của nhà nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội và con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế thị trường mang lại. 17
- KẾT LUẬN Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại của minh; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt nam. Chủ trương lãnh đạo của Đảng đã thể hiện sự sáng suốt trong nhận thức nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều thiếu sót khiến cho kinh tế thị trường nước ta chưa vận dụng được hết các lợi ích, cũng như khắc phục hoàn toàn những nhược điểm của kinh tế thị trường nói chung, và chưa thể hiện được thành một nền kinh tế thị trường hiện đại mang bản sắc của Việt nam. Trong việc quản lý vẫn còn nhiều phiền hà, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc làm ăn. Vì thế mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài không muốn đầu tư vào Việt nam cho dù nhận thấy một thị trường rộng mở, có nhiều tiềm năng để phát triển. 18
- TÀI LIỆU THAM KHẢO Mai Ngọc Cường Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường Nguyễn Sinh Cúc Kinh tế thị trường định hướng XHCN NXBTK Phạm Việt Đài Mặt trái của cơ chế thị trường Giáo trình triết học Mác- Lênin NXBCTQG Lê Trần Hảo Thống kê thương mại trong nền kinh tế thị trường NXBTK Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội V. I. Lênin Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường Đặng Kim Nhung Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt nam Những vấn đề: Tổ chức và điều tiết thị trường. Một số kinh nghiệm nước ngoài Tạp chí cộng sản số 9/ 1998 Tạp chí kinh tế và phát triển số 13/ 1996 Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4/ 1996 Tạp chí phát triển kinh tế số 68/ 1996 Tạp chí thương mại số 5/ 1996 Đỗ Đức Thịnh Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển ở châu á Tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay Phan Quang Tuệ Một số học thuyết kinh tế tiền tệ của các nhà kinh tế thị trường Vũ Huy Từ Doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường ở Việt nam 19