Đề tài Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi: Con người là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm đạt tới sự hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết quả, rốt cuộc là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về đời sống xã hội.
doc 19 trang Khánh Bằng 30/12/2023 2680
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_moi_quan_he_giua_ca_nhan_va_xa_hoi.doc

Nội dung text: Đề tài Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội

  1. tận cho văn học nghệ thuật sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân dân còn là người thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm các giá trị đó. Trong lịch sử phát triển của xã hội, không có văn học dân gian thì cũng không thể có văn học bác học, không có kinh nghiệm của đa số người lao động thì cũng không có các khoa học. Đây là hai mặt không thể tách rời của đời sống tinh thần trong xã hội. - Hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân là cái nôi, là cơ sở cho sự hình thành các nhân vật ưu tú của xã hội. Sức mạnh và tài năng của lãnh tụ cũng chỉ được phát huy trong phong trào quần chúng, gắn bó mật thiết với quần chúng. Một nhân dân anh hùng, một đại chúng cách mạng năng động sẽ là cơ sở để sản sinh ra những anh hùng, những lãnh tụ tiêu biểu của mình. Như vậy, xét tất cả các mặt trong đời sống xã họi từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, khi quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử. Song, theo quan niệm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần chúng tin yêu. Vai trò to lớn của họ trong quá trình phát triển lịch sử được thể hiện ở những điểm sau: - Lãnh tụ là người đúc kết trí tuệ, nhu cầu nguyện vọng của quần chúng để định hướng cho hoạt động của quần chúng. Cá nhân ưu tú là con đẻ của quần chúng và chỉ có những cá nhân như thế mới "sống mãi" với lịch sử. - Lãnh tụ do có trình độ nhận thức cao, họ nhìn xa trông rộng, thấy được xu hướng tất yếu khách quan của lịch sử, từ đó, họ đưa ra những dự đoán khoa học thiên tài và chủ động tổ chức quần chúng hoạt động thống nhất tiếp nhận và thực hiện xu hướng lịch sử đó. - Lãnh tụ là người giáo dục, thức tỉnh, tổ chức, tập hợp quần chúng đấu tranh, hướng phong trào qua những khó khăn, đưa phát triển phát triển nhanh chóng. Và, quần chúng chuyển hoạt động từ tự phát sang tự giác, từ kinh nghiệm sang khoa học, từ phân tán sang có tổ chức thống nhất, từ nhu cầu 11
  2. hàng ngày sang biến đổi lịch sử phải qua mất khâu trung gian là hoạt động khái quát tư tưởng và tổ chức lãnh đạo của các cá nhân lãnh tụ, đại diện cho lợi ích quần chúng. Họ không phải là người đứng bên ngoài, hay bên trên quần chúng mà là sản phẩm, là một nhân tố tự nhiên của phong trào quần chúng, sống và phát triển phụ thuộc vào sự chấp nhận tín nhiệm của quần chúng. Chủ nghĩa Mác LêNin đánh giá cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử, đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân là thần thánh hoá cá nhân, lãnh đạo, đi đến chỗ chỉ thấy vai trò của cá nhân quyết định tất cả mà không thấy, hoặc coi nhẹ vai trò của quần chúng. Đây là biểu hiện của quan niệm duy tâm về lịch sử, hoàn toàn trái ngược với thế giới quan của giai cấp vô sản. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, quần chúng nhân dân là những bị trị, sống phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và cầm quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và cầm quyền thống trị. Trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân là người làm chủ xã hội. Tất cả những cá nhân và bộ máy lãnh đạo, quản lý đều là công cụ thực hiện quyền làm chủ của quần chúng nhân dân. Những người cầm đầu của giai cấp bóc lột có tác dụng tiến bộ trong thời kỳ mà vai trò lịch sử của giai cấp đó còn phù hợp với tiến trình lịch sử.Nhưng khi giai cấp đó trở thành phản động, những người cầm đàu của nó trở thành lực lượng cản trở, kìm hãm sự phát triển của lịch sử. Nói một cách khác là, trong những thời kỳ lịch sử nhất định có những cánhân đại diện cho các lực lượng tiến bộ và những cá nhân cầm đầu các lực lượng xã hội phản động. Công lao to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và lãnh tụ vô sản vĩ đại khác là ở chỗ, các ông đã chỉ cho giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức hiểu được nhiệm vụ lịch sử của họ, sức mạnh vĩ đại của họ và con đường đi đến tự giải phóng khỏi mọi ách áp bức bóc lột. Giai cấp công nhân và nhân 12
  3. dân Việt Nam vô cùng tự hào có vị lãnh tụ là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người đã kết tinh những phẩm chất tiêu biểu nhất của một lãnh tụ vô sản. Thắng lợi của "cách mạng Việt Nam, ngót lửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. 13
  4. II. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 1. Khái niệm nhân tố con người, chiến lược con người Nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển sáng tạo quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý thức, là chủ thể của lịch sử. Trong thời igan gần đây, xuất hiện nhiều khái niệm: nhân tố con người, nguồn nhân lực, nguồn lực con người, phát triển người Khái niệm nhân tố con người đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập với những góc độ khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả đề cập dưới góc độ quản lý, có tác giả đề cập dưới góc độ phân tích tâm lý - xã hội. Trong tài liệu triết học - xã hội về nhân tố con người cũng nổi lên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu trung lại, có hai cách tiếp cận chính: - Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con người riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng như tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định. - Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hoà các phẩm chất thuộc tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các dạng thức hoạt động khác nhau. Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người về bản chất là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng sự khác nhau là quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn phẩm chất, năng lực được thể hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy đặc trưng cơ bản là những phẩm chất năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện nó. Từ đây, có thể đưa ra một quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con người là: nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định. 14
  5. Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố "người" với các yếu tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội trong đời sống xã hội, mà quan trọng hơn là để khẳng định vai trò của nhân tố "người" đối với các yếu tố đó. Tức là không có khái niệm nhân tố con người tách khỏi hoạt động, dù đó là hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Tịch cực hoá nhân tố con người là phát hiện, như bộc lộ, hình thành và sử dụng tiềm năng sáng tạo của người lao động và phát huy nhân tố con người chính là chăm lo tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng đồng người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động, trong hoạt động sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội vì hạnh phúc của mỗi con người. Đây cũng chính là quá trình làm cho mỗi con người trở thành chủ thể có ý thức trong sáng tạo lịch sử Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh thần, giá trị thể chất, vật chất. Con người ở đây được xem xét như một tài nguyên, một nguồn lực. Vì thế, phát triển người hoặc phát triển nguồn lực con người trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hết sức cần thiết trong hệ thống phát triển các loại nguồn lực như vật lực, tài lực, nhân lực, trong đó phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò trung tâm. Lịch sử phát triển nhân loại là lịch sử giải phóng từng bước con người cả vật chất và tinh thần. Và không phải đến chủ nghĩa xã hội mới bàn đến chiến lược con người, khai thác yếu tố người, vì trong lịch sử, không chế độ nào tồn tại lại không nhắc đến yếu tố người, nhưng vấn đề là khai thác, phát huy theo lợi ích giai cấp nào và bằng phương thức nào. Thực chất chiến lược con người là tạo ra môi trường xã hội kích thích con người hoạt động sáng tạo và thoả mãn nhu cầu tối đa của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là môi trường kinh tế xã hội, môi trường chính trị xã hội, môi trường văn hoá xã hội. 2. Chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội mới. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy 15
  6. mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo lối "vựot trước, đi tắt, đón đầu" nhất thiết gắn liền với phát triển con người và coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau: Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Thực chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn chứng minh, những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong gần 20 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam mới. Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Bất kỳ một quốc gia dân tộc nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội. Bởi vì, đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội. Ổn định chính trị, trước hết thể hiện sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hoàn chỉnh. Ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng được đặt ra giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay từ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính trị, nhằm làm cho hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình củng cố và phát triển hệ thống chính trị từ nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống 16
  7. chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục. Ngày nay, cùng với việc đổi mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương châm: "Giáo dục cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có". Mặc khác, giáo dục toàn diện: giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề nghiệp, giáo dục đạo đức, phải sử dụng nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa dạng phong phú, tạo điều kiện cho con người tự giác, tự giáo dục, chủ động sáng tạo. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản xuất sức lao động, đầu tư cho tương lai Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều nước trên thế giới, trong kế hoạch phát triển đất nước, các quốc gia này đều đặt giáo vào hệ thống ba chiến lược: giáo dục khoa học và mở cửa. Có thể nói, ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục trong cách mạng khoa học và công nghệ. Bốn là, mở rộng giao lực quốc tế, Để tạo điều kiện cho con người Việt Nam sáng tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến kịp trên con đường tiến hoá của nhân loại đòi hỏi phải kết hợp việc tổng kết kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm của thế giới. Không chỉ tìm phương thức, hình thức xây dựng chủ nghĩa xã hội nội bộ nước mình, dân tộc mình, các nước xã hội chủ nghĩa mà còn tìm ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp thu có phê phán chọn lọc những giá trị phong phú của loài người sẽ tạo thành một động lực mạnh mẽ để hình thành từng bước một chủ thể mới của lịch sử - con người Việt Nam mới vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa đại biểu cho sự phát triển của dân tộc. Và chắc chắn rằng "Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng với các nước phát triển trên thế giới". 17
  8. KẾT LUẬN Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người. Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá của thầy để em rút kinh nghiệm trong những bài sau. Em xin chân thành cảm ơn! 18
  9. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Minh Hạc, nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, 2001. 2. Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2002. 3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb Chính trị quốc gia, 2001. 4. Ngô Đình Giao (chủ biên), Suy nghĩ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, 1996. 5. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, Khoa giáo Trung ương, Hà Nội, 2000. 6. Dự thảo tầm nhìn Việt Nam 2020, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, 2001. 7. Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, Nxb Chính trị quốc gia, 2000. 19