Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

Xã hội: xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình, thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Theo Mác: "Xã hội không phải gồm các cá nhân người. Xã hội biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau".
doc 29 trang Khánh Bằng 30/12/2023 1920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_moi_quan_he_bien_chung_giua_tu_nhien_va_xa_hoi_phan_t.doc

Nội dung text: Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

  1. Nằm trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, môi trường và ảnh hưởng của nó đến sự tồn tại và phát triển của xã hội có lẽ là vấn đề quen thuộc nhất, nó thường xuyên được nhắc đến quanh ta. Môi trường là gì? Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống. Khái niệm này bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây chúng ta sẽ chỉ chủ yếu xét đến môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như môi trường sinh thái, môi trường sinh quyển. Môi trường sinh thái là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Như vậy trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thì môi trường sinh thái đại diện cho bộ phận còn lại của tự nhiên bên cạnh bộ phận đặc thù của tự nhiên là xã hội. Vai trò của môi trường sinh thái đối với xã hội trong quá trình lịch sử ở những giai đoạn khác nhau cũng được thể hiện một cách khác nhau. Khi xã hội còn ở trình độ mông muội - khi con người chủ yếu chỉ biết săn bắt hái lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người hoàn toàn bị giới tự nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống xã hội hoàn toàn phụ thuộc môi trường tự nhiên. Khi con người văn minh hơn - nhất là khi khoa học kĩ thuật phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được tự nhiên. Con người đã từng bước chế ngự , khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề ra đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, đồng thời có những ngành ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra đời như điện tử, phần mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây). Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi trường tự nhiên rất nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội. 10
  2. Ta có thể lấy một ví dụ về sự ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát triển của xã hội, hãy xem những sự phụ thuộc vào môi trường tự nhiên từ xa xưa của các xã hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào: Đây là một đoạn trích từ bài viết "Jared Diamond và vận mệnh của các nền văn minh" của tác giả Trần Hữu Dũng đăng trên tạp chí Tia Sáng số 3, tháng 3, năm 2005: Trong cuốn "Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của các Xã hội Loài người" (Guns, germs and Steel: The Fates of Human Societies", New York: Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc để giải thích tại sao các nước Tây phương trổ nên thống trị thế giới. Mục đích của ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến cho rằng chủng tộc, văn hóa và truyền thống có ảnh hưởng quyết định đến những khác biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu lục khác nhau, trong suốt lịch sử. Diamond tóm tắt phát hiện của ông như sau: Lịch sử của các nhóm dân khác nhau không phải vì sự khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân mà vì sự khác biệt về môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý do căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ rất xa trong quá khứ. Hãy lấy năm 1500 sau công nguyên làm điểm mốc. Có thể xem năm này là khởi điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục khác. Lúc ấy thì các nước đã có sự khác biệt về trình độ công nghệ và tổ chức chính trị. Phần lớn Âu, Á và Bắc Phi đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt thậm chí vài nước đã sắp sang thời kỳ công nghiệp hóa. Hai nhóm ở châu Mỹ (Inca và Aztec) đã là những đế quốc có dụng cụ bằng đá và bắt đầu thử nghiệm với đồng. Những dân tộc khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân ở châu Úc, châu Mỹ và châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa vào nông nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ săn bắn và lượm nhặt với khí cụ bằng đá. Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ công nghệ vào khoảng năm 1500 là nguyên do gần gũi nhất đưa đến sự chênh lệch hiện nay trên thế giới. 11
  3. Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc tiêu diệt những nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá. Nhưng Jared Diamond không hoàn toàn thỏa mãn với cách trả lời này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng ấy vào năm 1500? Ngược dòng lịch sử xa hơn nữa, từ khi thời đại băng hà chấm dứt cho đến 11000 năm trước tây lịch, mọi người ở khắp các châu lục đều sống nhờ săn bắn và hái nhặt. Như vậy, chính sự khác biệt về tốc độ phát triển (cụ thể là giữa lục địa Âu Á và những lục địa khác) từ năm 11000 trước tây lịch đến 1500 năm sau tây lịch đã đưa đến sự chênh lệch mà ta thấy khoảng năm 1500. Diamond đơn cử trường hợp châu Âu thuộc địa hóa Tân Thế giới. Hiển nhiên, đó là vì người châu Âu có tàu bè, có tổ chức chính trị, có súng, có gươm thép, có ngựa, rồi cơ may lại đem theo những loại vi trùng bệnh tật giết thổ dân da đỏ ngay trước khi những người này đứng lên chống cự (vì thế sách có tên "Súng, Vi trùng và Thép"). Song Diamond không dừng lại ở đó, ông tra hỏi thêm. Thế thì tại sao dân châu Âu có những lợi điểm ấy mà thổ dân châu Mỹ không có (đặc biệt, tại sao các vi trùng của dân châu Âu lại độc địa đối với thổ dân châu Mỹ thay vì ngược lại?). Càng truy gặng, càng lùi ngược về quá khứ, Diamond càng thấy các yêu tố môi trường là quan trọng. Cụ thể, Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường: 1. Khác nhau thứ nhất giữa các đại lục là về các giống thảo mộc và động vật hoang dã mà con người có thể đem về nuôi trồng. Ông lý luận rằng khả năng nuôi trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng dư, và chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới "nuôi" được một thành phần "chuyên viên" giúp xã phát triển những lĩnh vực như công nghệ, văn hóa, v.v Chính những phát triển này sẽ tạo cho xã hội liên hệ những ưu thế chính trị và quân sự so với láng giềng. 2. Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch (cả người lẫn vật) trong cùng một lục địa. Những sự chuyển dịch này là dễ 12
  4. dàng nhất ở lục địa Âu Á, bởi vì hướng chính của lục địa này là đông tây, tương đói ít ngăn trở môi sinh và địa lý. 3. Khác nhau thứ ba là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch giữa các lục địa. Vì những ngăn cản địa lý, nhiều lục địa không nhận được những công nghệ hay thú vật, thảo mộc từ các lục địa khác. Song, Diamond cũng nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì nó khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa phương, cũng như các công nghệ bản địa. 4. Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai. Lục địa càng rộng càng đông dân thì càng có nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong một lục địa như vậy sẽ có nhiều xã hội tranh đua hơn, rồi chính sự tanh đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ gây áp lực phát minh và cải cách, bởi lẽ những quốc gia "tụt hậu" sẽ bị các quốc gia khác thống trị, thậm chí tiêu diệt. Một đoạn thích thú trong quyển sách là sự so sánh của Diamond về sự tiến bộ công nghệ giữa Trung Quốc và Tây phương. Trung Quốc đã có những hạm đội viễn dương vào những năm đầu của thế kỷ XV nhưng sau đó không lâu thì lại giải thể hạm đội này, chấm dứt mọi hoạt động viễn du, vì lệnh triều đình (cụ thể là do sự tranh chấp quyền lực giữa các phe trong triều đình lúc ấy). Ở châu Âu, trái lại, nhà thám hiểm Columbus đã tìm được tài trợ cho chuyến đi của ông từ triều đình Tây Ban Nha sau khi bị nhiều nơi khác từ chối. Theo Diamond, sự thống nhất của Trung quốc cho phép nước này canh tân trước phương Tây, song cũng chính sự thống nhất sớm của Trung quốc đã làm giảm đi khả năng đổi mới của nước này. Triều đình ra lệnh một cái là mọi hoạt động canh tân dừng lại ngay! Ở châu âu thì khác: Một tiến bộ bị ngăn chặn ở nước này có thể được tiếp tục ở nước khác. các nước châu Âu đủ gần gũi nhau để chia sẻ những ý kiến mới, nhưng quyền hành lại không tập trung đến độ có thể hoàn toàn giết chết một ý mới 13
  5. Có nhiều người có thể không thấy thực sự bị thuyết phục bởi trọng tâm ý kiến của ông (mà họ cho rằng) theo đó mọi việc đều là hậu quả tất nhiên của địa lí, cộng với tình trạng dân số ngày càng cao. Nhiều người cho rằng Diamond coi nhẹ vai trò của trí tuệ và do đó không thấy hết được sự quan trọng của khoa học trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên trong lời bạt viết thêm khi cuốn sách này tái bản năm 2003, Diamond khẳng định ông không hề xem nhẹ những yếu tố về con người, tư tưởng hay văn hóa. Ông chỉ muốn nói rằng nhìn suốt nhiều nghìn năm lịch sử thì vai trò của môi trường và địa lí thực có tính quyết định. Vài nét về Jared Diamond: Jared Diamond (người Mỹ, sinh năm 1937) hiện là giáo sư địa lí của trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA). Tuy ông có bằng tiến sĩ về sinh lí học, nhưng kiến thức của ông bao trùm hầu như mọi ngành, từ kiến trúc, ngôn ngữ, khảo cổ, đến động vật học, y học. Ông cũng không phải là một học giả "tháp ngà": ông đã đi khắp châu lục, thậm chí sống nhiều năm ở những nơi "gần như tận cùng thế giới" (như đảo Tân Ghi-nê, đảo Phục Sinh). Hai cuốn sách của ông (một cuốn ra năm 1997, đoạt giải Pulitzer, thuộc hàng "best seller", và một cuốn vừa ra cuối năm 2004) đã đặt ông vào hàng ngũ những nhà tư tưởng hiện đại có nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ. Bài trích trêm được đưa ra chỉ nhằm đưa thêm một ý kiến khẳng định tầm quan trọng của môi trường tự nhiên với xã hội chứ không có ý định bác bỏ vai trò của con người. Sự bùng nổ dân số: Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội có một điểm ta không thể không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số. Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó, nó cần tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây ra các ảnh hưởng nhất định đến môi trường. Khi dân số phát triển ngày càng cao thì như cầu với tự nhiên càng lớn; những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, thực phẩm, thuốc men, nước sạch ngày càng thiếu thốn. Đồng thời nhiều vấn đề môi trường cũng nảy sinh như ô nhiễm 14
  6. nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác các nguồn đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Áp lực lên môi trường ngày càng lớn và thực sự khả năng chịu đựng của môi trường là có hạn. Sự bùng nổ dân số thực tế là sự tăng lên rất nhanh của số lượng cá thể của quần thẻ người là một ví dụ cho sự phát triển vốn có ở tất cả các loài. Một quy luật kèm theo là: Khi số lượng cá thể của quần thể vượt quá khả năng chịu đựng của môi trường thì sự chết hàng loạt sẽ xảy ra nhưng thường là từng vùng chứ không phải là quy mô toàn cầu (I.M. Barrett and oth, 1986) Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa. Mà những cách ứng xử sai của con người với tự nhiên hiện nay đang làm giảm đi sức chịu đựng của tự nhiên. Do đó chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường va cư xử đúng với tự nhiên. Nguyên nhân của sai lầm này là do chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, cần xóa bỏ nó, khi xây dựng đựoc chế độ xã hội chủ nghĩa, con người sẽ cư xử tốt hơn với tự nhiên vì không còn bị lợi nhuận chi phối. 2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam: Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ môi trường, gìn giữ sự cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài và ổn định cho xã hội loài người. Giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. 2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam: Việt Nam: Những số liệu thống kê chính Thủ đô : Hà Nội Ngôn ngữ chính thức : tiếng Việt 15
  7. Đơn vị tiền tệ : đồng Diện tích : 329.566 km2 Dân số ước tính (năm 1998) : 78 triệu người Tốc độ tăng trưởng dân số : 2,3% Mật độ dân cư : 210 người/km2 Thời gian tăng gấp đôi số dân : 31 năm Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích : 7 % Tổng số diện tích được bảo tồn : 22.976 km2 Số khu vực được bảo tồn : 101 Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Các nguồn tài nguyên Việt Nam: 2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam: Quỹ đất của việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích đất bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới). Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn vàng đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha Tổng tiềm năng dự trữ quỹ đất nông nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7 triệu ha được sử dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số đó là trồng cây hàng năm. Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn , đất trũng úng nước, đất dễ bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lưu ý. 2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam: Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên). Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km3 /năm, của sông Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm. Nước ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày. Đến năm 2000 lượng nước lấy đi cho tiêu dùng ở Việt nam tổng số khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lượng nước sản sinh ra trong lãnh thổ. 16
  8. 2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam: Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. Việt nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ có 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lượng Vịnh Bắc bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn sơn 400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu tấn, Vịnh Thái lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn; khí đốt thiên nhiên có trữ lượng lớn. Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá là to lớn, đủ cơ sở cho công nghiệp hóa. 2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam: Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao. Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có nhiều hải sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ có sò, ngao , điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn một năm. Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm. 2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học: Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng. Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang dã. Rừng ngập măn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm thực vật phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động vật và nguồn tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đày sự hấp 17
  9. dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này đã từng là nguồn cung cấp thực phẩm, là nguồn dược liệu độc đáo, là nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ trang điểm cho cuộc sống. Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai thác hợp lý. Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm 1943, năm 2000 còn khoảng 20%(66.420 km2). Về đa dạng sinh học, Việt nam có độ đa dạng sinh học cao: Về thực vật: Có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10% là đặc hữu. 800 loài rêu, 600 loài nấm lớn.2300 loài dùng làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu,1500 loài cây làm dược liệu. Ở dưới nước ngọt có hơn 1000 loài tảo. Nhiều loài có giá trị dinh dưỡng cao. Ở biển cũng có hơn 1000 loài tảo. Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về thành phần loài Bảng so sánh thành phần loài động vật ở Việt Nam so với thế giới (chỉ tính một số nhóm động vật ở bậc loài) STT Nhóm động vật Số loài ở Việt Số loài trên thế Nam giới 1 Thú 275 4.000 2 Chim 828 9.672 3 Bò sát 260 6.300 4 Lưỡng cư 82 4.184 5 Cá 2.600 19.000 6 Côn trùng 7.000 751.000 Hệ động vật rừng Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà có những nét đặc trưng cho hệ động vật Đông Nam Á, không những thế Việt Nam có mức độ cao về tính đặc hữu (endemic) so với các nước trong vùng phụ Đông 18
  10. Dương. Thiên nhiên Việt Nam với sự đa dạng sinh học có tầm cỡ quốc tế được chú ý và đánh giá cao. Tuy nhiên do các hoạt động khai thác không hợp lý các nguồn tài nguyên sinh vật, phá hủy môi trường sống, đa dạng sinh học Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng. Nhiều loài động vật đã biến mất hoàn toàn (như tê giác hai sừng), số loài bị đe dọa ngày càng nhiều. Một số loài có nguy cơ bị tuyệt diệt là: tê giác một sừng, bò xám, bò rừng, hạc cổ trắng, đồi mồi, cóc tía Tê giác Java (tê giác một sừng: Rinoceros sondaicus) là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao hàng đầu ở Việt Nam và trên thế giới. Ở Việt Nam chỉ có khoảng 7 cá thể loài này tại Vườn quốc gia Cát Tiên. 2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam: Do chiến tranh tàn phá, sự gia tăng dân số nhanh, sự phát triển của các ngành kinh tế, tài nguyên môi trườngViệt Nam đã bị phá hủy nhiều. Thực sự Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề về môi trường. Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiên đại hóa đất nước, nền kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Sự phát triển công nghiệp với những công nghệ ít thân thiện với môi trường đồng thời với một hệ thống chính sách và thực hiện ít hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường đang làm cho môi trường Việt Nam trở nên ô nhiễm hơn. Cơ chế thị trường cùng với một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết sẵn sàng khai thác đến cạn kiệt mọi nguồn tài nguyê vì lợi nhuận. Đói nghèo cũng đẩy nhiều người vào cảnh phải tàn phá thiên nhiên vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Ngay cả du lịch sinh thái, khi được tổ chưc không hợp lí cũng phá hủy cảnh quan môi trường. Rác thải sinh hoạt, công nghiệp, khói bụi ngày càng nhiều hơn và thực sự rất khó giải quyết. Bảy vấn đề môi trường gay cấn của Việt Nam: 1. Nạn phá rừng: 19
  11. Năm 1943 ta có 37% đất phủ xanh Năm 1975 " 29,1% " Năm 1983 " 23,6% " Đối với vùng nhiệt đới dưới 30% là khủng hoảng môi trường. Chế độ thủy văn thay đổi  khí hậu thay đổi  cảnh quan thay đổi  suy thoái độ đa dạng sinh học. 2. Suy giảm tài nguyên đất: Giảm diện tích bình quân đầu người là do dân số tăng. Năm 1940 Việt Nam có 0,2 ha/ người 1960 Việt Nam có 0,18 ha/ người 1970 Việt Nam có 0,15 ha/ người 1980 Việt Nam có 0,13 ha/ người 1990 Việt Nam có 0,11 ha/ người Năm 2000 Việt Nam có 0,06 ha/ người 2010 Việt Nam có 0,04 ha/ người Đất bị xói mòn, rửa trôi, laterit hóa, chua phèn hóa, mặn hóa. 3. Sử dụng tài nguyên nước không hợp lệ. Không giữ được nước vì không có hồ chứa nước, kĩ thuật điều tiết nước thấp. Thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô. Ô nhiễm nước nặng nề ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ô nhiễm mặn do khai thác nước ngầm 4. Tài nguyên khoáng sản bị tổn thất, khai thác không hợp lí. Than lộ thiên mất 15-20%. Hầm lò mất 30-40%. Sử dụng đá granit để rải đường. Gây ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản. Khai thác vàng, đá quý bừa bãi. 5. Suy thoái đa dạng sinh học: Nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng.Sách đỏ đã liệt kê 500 loài động gặp nguy hiểm, 60 loài tuyệt chủng. Các hệ thống vườn quốc gia xây dựng và bảo vệ tốt nhưng rất khó khăn về thể lệ, nguồn lực để bảo vệ. Có 3200 km bờ biển nhưng không đủ vốn để 20
  12. sắm tàu nên khai thác bừa bãi vùng ven bờ, nuôi thủy sản không khoa học. 6. Ô nhiễm môi trường từ nước, không khí, rác, chất thải, tiếng ồn. Các khu công nghiệp ô nhiễm hóa chất. 7. Hậu quả của chiến tranh: Hiện nay chất độc trong chiến tranh còn ảnh hưởng, nhiều người còn di chứng không khắc phục được. Nhìn chung chất lượng môi trường Việt Nam ngày một xấu đi. 2.2. Nhìn ra thế giới - Những bài học: 2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới: Rất nhiều nước trên thế giới cũng gặp những vấn đề về môi trường như Việt Nam. Trung Quốc cùng ở trong giai đoạn phát triển như Việt Nam song có đi trước Việt Nam một thời gian, cho đến nay những vấn đề môi trường ở Trung Quốc là rất nan giải: ô nhiễm nước, rừng không còn, khói bụi Nhiều nơi khác đã gặp thảm họa ngay từ bây giờ: Biển Aral là một điển hình về thảm họa sinh thái do con người gây ra. Biển Aral ở Trung Á - một nơi ô nhiễm nhất trên Trái Đất. Một thời nổi tiếng la Biển Xanh, đã từng là hồ nước ngọt lớn thứ tư thế giới, nhưng chỉ trong vòng 30 năm, nó đã bị thu hẹp tới hơn một nửa diện tích và nước của nó trở nên mặn như nước biển. Khi nguồn nước cạn kiệt và bốc hơi, để lại trong lòng hồ3,6 triệu ha đất bị ô nhiễm và những trận bão dữ dội lại quét lượng đất ô nhiễm này đổ sang các vùng đất xung quanh. Thực phẩm giờ đây khan hiếm, tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh đang tăng lên và tuổi thọ của người dân vùng này, theo một số chuyên gia, đang giảm xuống 20 năm. Thảm họa sinh thái này là do qua nhiều thập kỉ biển Aral không được chú ý đến và bị quản lí sai lầm, như khai thác nước quá mức do hệ thống tưới tiêu, để các chất thải chảy từ sông ra biển một cách bừa bãi, sử dụng một lượng nước lớn cho thủy điện. Ngày nay, Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế Giới, Liên hiệp châu Âu và một số nước khác đang huy động nỗ lực quốc tế để phục hồi cân bằng sinh thái của vùng biển Aral, bổ sung nguồn tài nguyên và cấp bách giải 21