Đề tài Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ
Công nghiệp hoá được định nghĩa và có nhiều quan niệm khác nhau song nó thường được hiểu là một quá trình gắn liền với việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế nhằm thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_co_so_ly_luan_triet_hoc_cua_duong_loi_cong_nghiep_hoa.doc
Nội dung text: Đề tài Cơ sở lý luận triết học của đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ
- c) Xây dựng kết cấu hạ tầng Trong cơ chế thị trường, kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất, kinh doanh và đời sống của dân cư. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu ở hạ tầng của nền kinh tế nước ta hết sức thấp kém, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh và của đời sống dân cư. Do vậy, trong những năm trước mặt, việc xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế được coi là một nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do khả năng tài chính hạn hẹp, việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải tập trung vào cải tạo, mở rộng và nâng cấp. Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có bằng cách khôi phục nâng cấp và mở rộng những tuyến giao thông trọng yếu. Mở thêm cảng sông, cảng biến, sân bay. Tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mạng thông tin liên lạc quốc gia, mở rộng mạng lưới điện đáp ứng nhu cầu và cung cấp điện ổn định. Cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm nguồn nước sạch cho nông thôn. d) Phát triển nhanh du lịch, các ngành du lịch Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường sớm phổ cập sử dụng tin học và mạng thông tin quốc tế trong nền kinh tế và đời sống xã hội. Phát triển dịch vụ trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư. Phát triển dịchvụ còn nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Sự phát triển củacác ngành ngân hàng, thông tin bưu điện, thương mại, giao thông vận tải, trực tiếp quyết định hiệu quả của các ngành sản xuất vật liệu, kinh doanh. Sự phát triển của ngành du lịch cho phép khai thác tiềm năng du lịch, tăng thu nhập, tạo việc làm, đồng thời còn góp phần mở rộng giao lưu, mở cửa nền kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại. e) Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ 11
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm co tất cả các vùng cùng nhau phát triển. Tập trung nguồn lực cho các địa bàn trọng điểm mang lại hiệu quả cao, đẩy mạnh hợp tác phát triển, hỗ trợ những nơi khó khăn. Đảng cộng sản Việt Nam xác định phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng. Quan tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh. Hỗ trợ cho những vùng khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển. g) Mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế là cần thiết với tất cả các nước công nghiệp hóa, hiện đại hoá không thể thành công nếu không mở cửa nền kinh tế. Trong việc mở cửa hội nhập, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại: Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Giảm tỉ trọng sản phẩm thô và cơ chế tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tình trạng hàng xuất khẩu. Nâng cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong quá trình hàng nhập khẩu. Giảm dần nhập siêu, có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với đối tác, tăng dự trữ ngoại tệ 3. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thời kì quá độ Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại đại hội lần thứ IX là:"Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thàh một nước công nghiệp theo hướng hiện 12
- đại [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 89]. Nước công nghiệp ở đây cần được hiểu là một nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế. Tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP cả về lực lượng lao động đều vượt trội so với nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50%. Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, công nghiệp hoá cần phải thực hiện được những mục tiêu cụ thể nhất định. Trong những năm trước mắt, trong điều kiện về vốn còn hạn hẹp; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội phát triển, tăng trưởng chưa thật ổn định, chúng ta cần tập trung, nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN TRIẾT HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM THỜI KÌ QUÁ ĐỘ 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến. Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này được biểu hiện ở lực lưỡng, mặt khác, con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, mặt khác, con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những là thước đo 13
- thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo sự tòn tại và phát triển của xã hội loài người mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người với người trong sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội. Các Mác đã đưa ra kết luận rằng: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn của sự phát triển đó là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế này bằng hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. 2. Cơ sở lí luận xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ ở Việt Nam a) Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi lên từ nền sản xuất nhỏ lên một nền sản xuất lớn. Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có, nó do quá trình tích luỹ về lượng ngay từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu như không có gì, nhưng trải qua sự nỗ lực của con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, giờ đây con người đã tạo ra được những thành công đáng kể. Ngày nay trong công cuộc xây dựng, các nước đã cố gắng rất nhiều trong cuộc chạy đua cạnh tranh về nền kinh tế. Thể hiện là các chính sách, đường lối về phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lưỡng, nền văn hoá con người của xã hội đó, Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền sản xuất hiện đại. Tuy nhiên tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không giống nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta hiện nay, công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật, tất yếu để tồn tại và phát triển 14
- nhằm tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất. Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới có thể : - Xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. - Tiến hành tái sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tích luỹ về lượng nhằm xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. - Tăng cường, phát triển lực lượng giai cấp công nhân. - Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. - Góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con người mới ở Việt Nam. Như vậy, công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn. b) Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước tham chiến dù thắng hay bại đều trở thành những nước kiệt quệ về kinh tế. Đây là một trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn: - Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến những năm 70. Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất cả về con người và công cụ sản xuất. - Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ những năm 70 đến nay. Giai đoạn này thực hiện cuộc cách mạng với quy mô lớn và toàn diện lực lượng sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật. Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất. Ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây là thời kỳ mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. 15
- Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân đã dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế. Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước đó là các cường quốc về kinh tế, các nước phát triển và các nước đang phát triển. Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kĩ thuật, lực lượng sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Để có được cơ sở vật chất, kĩ thuật của một nền sản xuất lớn, không còn con đương nào khác là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao. 16
- KẾT LUẬN Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm tới những mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó đổi mới hàng loạt vấn đề cả về lí luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính trị - xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Quá trình thực hiện công nghiệp là nhằm mục tiêu biến đổi nước ta thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất, tinh thần được nâng cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo ra sự chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nước ta về chính trị - kinh tế - quốc phòng - an ninh. Việc Đảng và Nhà nước ta chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hó là hết sức đúng đắn. Quá trình này mới chỉ là bước đầu song nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. 17
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin 2. Giáo trình triết học Mác - Lênin 3. Tạp chí cộng sản "số ra tháng 1 - 2002" 4. Tạp chí "triết học số 7 (134), tháng 7 - 2002" 5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX 18