Bài giảng Triết học Mác - Lenin - Nguyễn Thị Hồng Vân

- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao.
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng manghàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia - nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
pdf 125 trang Khánh Bằng 29/12/2023 600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Triết học Mác - Lenin - Nguyễn Thị Hồng Vân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_triet_hoc_mac_lenin_nguyen_thi_hong_van.pdf

Nội dung text: Bài giảng Triết học Mác - Lenin - Nguyễn Thị Hồng Vân

  1. Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học. Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều. Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm: + Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác; + Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. KẾT LUẬN Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử. Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ. 12
  2. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác Chương 2: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC 2.1. TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ TRUNG ĐẠI 2.1.1. Triết học Ấn Độ cổ trung đại. 2.1.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội và đặc điểm về tư tưởng triết học Ấn độ cổ, trung đại. a. Điều kiện kinh tế-xã hội: * Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ trung đại là một lục địa lớn ở phía nam châu Á, có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: vừa có núi cao lại vừa có biển rộng; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy nóng bức * Điều kiện kinh tế-xã hội: + Đặc điểm nổi bật về điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế-xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”. + Trong xã hội Ấn Độ cổ, trung đại đã phân hóa và tồn tại dai dẳng bốn đẳng cấp lớn: tăng lữ (Bràhman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vai’sya) và tiện nô (K’sudla). Ngoài sự phân biệt đẳng cấp, xã hội Ấn Độ cổ đại còn có sự phân biệt về chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo. * Về văn hóa: người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được những kiến thức phong phú về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, đã biết quả đất xoay tròn và tự xoay xung quanh trục của nó. Ở đây, toán học cũng xuất hiện rất sớm. Từ thời đó họ đã phát minh ra số thập phân, biết đại số, biết lượng giác, biết phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học, ở đây đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng cây thuốc, bằng thuật châm cứu, chủng đậu, ngoại khoa, v.v Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ, trung đại là thường mang dấu ấn sâu đậm về mặt tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh và có yếu tố thần bí. Triết học Ấn Độ cổ đại được chia ra làm hai phái: chính thống và không chính thống. Phái chính thống (àstika) là phái thừa nhận kinh Vêda gồm có: Sàmkhya, Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nỳaya và Vai’sesika. Phái không chính thống hay tà giáo (nàstika) là phái không thừa nhận kinh Vêda gồm có: Jaina, Lokàyata và Buddha (phật giáo). b. Đặc điểm của triết học Ấn độ cổ đại Thứ nhất: Nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tôn giáo, triết học có sự đan xen với tôn giáo, các quan niệm triết học, kể cả các quan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền 13
  3. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác bí của kinh Vêda, các quan niệm hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trực quan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời xen lẫn cái thần tiên, cõi niết bàn Tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “ giải thoát”, tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ (Át man với Brahman). Thứ hai: Triết học Ấn Độ cổ trung đại thường tôn trọng quá khứ và có khuynh hướng phục cổ: + Đa số các hệ thống triết học đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Vê da, lấy các tư tưởng trong kinh Vê da làm điểm xuất phát. + Các luận thuyết triết học về sau thường dựa vào các luận thuyết triết học có trước và tuyên bố sự lệ thuộc vào hệ thống triết học có trước. + Các nhà triết học sau chỉ là bảo vệ, lý giải, hoàn thiện thêm các quan niệm ban đầu Thứ ba: Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số trường phái triết học xoay quanh vấn đề “tính không” đem đối lập “không” với “có”, quy cái “có” về cái “không” thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao. 2.1.1.2. Các tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái triết học a. Các trường phái triết học chính thống Một là: Trường phái Sàmkhya: * Theo ngôn ngữ Ấn độ cổ đại Samkhya là người đếm, người tính toán. Phái này đặt cho mình mục đích nhận thức đúng hiện thực bằng cách tính đếm các khách thể và là phương tiện cơ bản để nhận thức. * Những tư tưởng của phái Sàmkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Đây là trường phái triết học đi sâu vào cặp nhân-quả, từ đó họ đưa ra những luận điểm nhân quả là quá trình liên tục. Theo họ, kết quả đã tiềm ẩn trong nguyên nhân; bởi vậy, nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật của thế giới với tính cách là nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) - một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được. * Bất kỳ vật thể nào trong thế giới cũng đều là kết quả của sự thống nhất, hợp nhất, chuyển hoá, tác động liên hệ của ba yếu tố: + Sattva: nhẹ, trong sáng, thuần khiết, tươi vui. + Rajas: kích thích, động, linh hoạt. + Tama: tính ỳ, thụ động, nặng. Khi sự cân bằng của ba yếu tố này bị phá vỡ thì nó biến hoá không ngừng, phát triển trong không gian và thời gian, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, do đó, nó chính là nguyên nhân tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên * Những nhà tư tưởng của phái Sàmkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố Purusa - yếu tố tinh thần mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hóa vào yếu tố vật chất. 14
  4. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác Hai là: Trường phái Mimànsà * Xuất phát điểm của nó chủ yếu dựa vào bộ kinh Vêda và Upanishad. * Mục đích cơ bản là chú giải, diễn tả những phương pháp cúng bái, lễ nghi, tế lễ và thực hiện các quy tắc xã hội theo bổn phận của mỗi người một cách cụ thể, chặt chẽ. * Các nhà triết học Mimànsà sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Họ cho rằng, không tìm được bằng chứng nào về sự tồn tại của thần. Cảm giác không thể nhận ra thần mà các nguồn khác của tri thức thì suy cho cùng cũng dựa trên cảm giác. Họ chống lại quan điểm triết học duy tâm vì nếu tin rằng thế giới hiện thực là không tồn tại, chỉ do ý thức sinh ra thì nghi lễ mà Mimànsà coi trọng và hiệu quả của nó trở nên vô nghĩa. * Những nhà triết học Mimànsà hậu kỳ thừa nhận sự tồn tại của thần. Ba là: Trường phái Vedànta Vêdànta chính là: + Sự hoàn thiện kinh Vêda. + Là học thuyết triết học Tôn giáo, ra đời trên cơ sở tư tưởng của Upanishad. + Trên cơ sở chú giải kinh Vêda và Upanishad, trường phái Vêdànta đưa ra những kết luận triết lý siêu hình biện giải duy tâm về nguyên nhân hình thành vũ trụ và vạn vật. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tức Thượng đế Brahman. Bốn là: Trường phái Yoga Là trường phái có tính cực đoan của chủ nghĩa duy tâm, biểu hiện khuynh hướng suy thoái về tư tưởng của xã hội Ấn Độ trong thời kỳ cổ điển. Yoga có nghĩa là “ sự liên kết” hay “ hợp nhất tâm thể về một khối”. Nội dung cơ bản là đề cập tới những phương pháp tu luyện mà người tu hành phải thực hiện, nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự tác động của các giác quan và sự giàng buộc của thể xác, của thế giới vật chất để trở nên trong sạch, để đạt dược sự hiểu biết siêu phàm, tối cao và vĩnh hằng. Trường phái Yoga, Vedànta và Mimànsà đều có xu hướng giải quyết vấn đề nhân sinh quan theo chủ đích đạt tới sự “giải thoát” tối hậu: hòa đồng cái Tôi (Tiểu ngã) với cái vũ trụ (Đại ngã). Năm là: Trường phái Nyàya - Vai’sesika Đây là hai phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng, nhất là vào giai đoạn hậu kỳ của mỗi phái. Những tư tưởng triết học căn bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và lôgic học. * Thuyết nguyên tử: - Bản nguyên của thế giới: đó là bốn yếu tố vật chất: đất - nước - lửa - gió (hay không khí). Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất chính là các Anu- hay còn gọi là nguyên tử. Đó là những hạt nhỏ vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt, trong không gian và thời gian, sự kết hợp của các nguyên tử khác nhau sự tạo ra sự đa dạng của giới tự nhiên. 15
  5. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác - Phái này còn cho rằng có sự tồn tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những nguyên tử vật chất, được gọi là Ya; mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn, v.v Để phối hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử. Năng lực này, phái Nyàya cho là thần Isvara, còn phái Vai’sesika thì gọi là năng lực vô hình, không thể dùng tư duy, ngôn ngữ để biện giải. * Về nhận thức luận và lôgíc học - Thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức v.v. Thước đo duy nhất để kiểm tra tính chân lý của các tri thức là thực tiễn. - Lôgíc: Hình thức biện luận được phái này đưa ra có thể gọi là “ngũ đoạn luận”, gồm năm mệnh đề: Ví dụ: 1. Luận đề : Đồi có lửa cháy; 2. Nguyên nhân: Vì đồi bốc khói; 3. Thí dụ: Bất cứ cái gì bốc khói đều có lửa cháy; thí dụ: bếp lò; 4. Suy đoán: đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy; 5. Kết luận: Do đó, đồi có lửa cháy. Các phái Nyàya và Vai’sesika ban đầu có tư tưởng vô thần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại có thần và cho rằng thần đã dùng nguyên tử để xây dựng nên thế giới. b. Các trường phái không chính thống Một là: Trường phái Jaina Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với phật giáo. Người sáng lập trường phái này tên là Mahavira, còn có hiệu là Jaina (nghĩa là chiến thắng). Trường phái này tự đặt cho mình nhiệm vụ là tìm ra con đường và phương tiện đưa lại sự giải thoát cho con người, nhưng lại phủ nhận sự tồn tại của Brahman (tinh thần vũ trụ). * Về bản thể luận: Học thuyết triết học này đề cao thuyết tương đối, theo thuyết này: + Tồn tại đầu tiên là bất biến, vô thủy, vô chung, sự biến chuyển của vạn vật là không cùng. + Thế giới vạn vật vừa bất biến vừa biến chuyển. Cái bất biến, vĩnh hằng là vật chất; cái không bất biến, không vĩnh hằng là các dạng của vật chất, giống như đất sét không thay đổi, nhưng những cái bình nặn bằng đất sét thì luôn thay đổi. * Về nhận thức luận: Jaina cho rằng nhận thức là sự phản ánh thế giới, phản ánh tính biến chuyển liên tục của thế giớiTôma. Để nhận thức thế giới phải xây dựng và sử dụng hệ thống các khái niệm như là các công cụ đồng thời cũng là kết quả của sự nhận thức. Một số khái niệm chủ yếu như sau: 16
  6. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác - Tồn tại - không tồn tại. - Vừa tồn tại vừa không tồn tại. * Jaina tin vào thuyết “luân hồi” và “nghiệp”. Để giải thoát luân hồi, con người cần phải tu luyện theo luật Ahimsa ( không sát sinh, không bạo lực, sống khổ hạnh ) Hai là: Trường phái Lokàyata Lokàyata là trường phái duy vật tương đối triệt để và vô thần. * Về bản thể luận: phái này cho rằng: mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tạo ra bởi bốn yếu tố vật chất (đất - nước - lửa - không khí). Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật, kể cả con người. + Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp với những phương thức, tỷ lệ, trật tự khác nhau của những yếu tố bản nguyên đấy. + Không có linh hồn bất tử. bản thân linh hồn hay ý thức cũng do sự liên kết của các nguyên tử vật chất theo cách thức đặc biệt, vật chất sinh ra ý thức cũng như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính chất mà gạo không có là làm người ta say. Từ đó, phái Lokàyata phủ nhận thuyết “luân hồi” và “nghiệp”, chế giễu “sự giải thoát”. Họ cho con người không phải gì khác là thân thể có ý thức, khi con người chết thì linh hồn cũng mất. * Về lý luận nhận thức, phái này có khuynh hướng duy vật theo lập trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất, xác thực của nhận thức. Các kết luận, các suy lý chỉ có giá trị trong mối liên hệ với thế giới một cách kinh nghiệm. Họ phủ nhận tính chân xác của những tri thức lý tính. Ba là: Triết học Phật giáo (Buddha) Triết học Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo điển hình thuộc phái không chính thống và có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Phật giáo được hình thành vào thế kỷ VI tr.CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa). Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau, nhưng phổ biến nhất là Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) còn có hiệu là Buddha (phật). Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất phát, thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Những tư tưởng này được thể hiện trong bộ “ tam tạng”- bộ kinh điển của đạo phật. Đó là: 1. Tạng kinh: ghi lời phật dạy. 2. Tạng luật: Gồm các giới luật của đạo phật. 3. Tạng luận: gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải bình chú về giải pháp của các cao tăng học giả về sau. * Về giới tự nhiên + Phật giáo cho rằng thế giới có bản nguyên đầu tiên là vật chất. Thế giới vận động một cách “vô thường”, “sắc sắc”, “không không". Sinh, trụ, dị, diệt. Do đó, phật giáo có thế giới quan 17
  7. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác + Phật giáo cho rằng vũ trụ là vô thuỷ vô chung, nếu đi tìm nguyên nhân thứ nhất của cũ trụ thì uổng công vô ích, vì khi vất vả đi tìm nguyên nhân thứ nhất, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng trước nguyên nhân thứ nhất lại có một nguyên nhân nữa, rồi cứ thế xoay vần mãi không thôi, sẽ mãi mãi không tìm ra nguyên nhân thứ nhất cố định, bất biến. Phật giáo cho rằng vạn vật vũ trụ là do “ nhân duyên hội tụ” lại mà thành, không có vật nào lại tồn tại mãi mãi mà không biến đổi, nhân duyên hợp thì sinh, nhân duyên rời là diệt. + Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ nhân duyên nên thành ra có (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại ngũ uẩn đó là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác) tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy, thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã). + Phạm trù “vô thường” nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh - trụ - dị - diệt. Vậy thì “có có” - “không không” luân hồi bất tận; “thoáng có”, “thoáng không”, cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. * Về nhân sinh quan Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý về nhân sinh, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng “luân hồi”, “nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Nội dung triết học nhân sinh của phật giáo tập trung ở bốn luận đề (“tứ diệu đế”), được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại. Luận đề thứ nhất: Khổ đế, là luận điểm khái quát về thực trạng của đời người, theo triết lý nhân sinh của Phật giáo thì cuộc sống nhân có 8 nỗi khổ trầm luân bất tận mà từ bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh; Lão; Bệnh;Tử (chết); Thụ biệt ly (yêu thương nhưng phải chia lìa ); Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau); Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được); Ngũ thụ uẩn( 5 yếu tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ) Luận đề thứ hai: tập đế hay nhân đế: là luận đề lý giải về những nguyên nhân gây đau khổ. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh: là không sáng suốt, ngu tối. 2. Hành: là ý muốn thúc đẩy hành động, tạo ra nghiệp lành-dữ. 3. Thức: là nhận thức, ý thức phân biệt cái tâm trong sáng, cân bằng với cái tâm ô nhiễm, mất cân bằng. 4. Danh sắc: là sự thống nhất, kết hợp cái vật chất (sắc) và cái tinh thần (danh) để sinh ra 6 cơ quan cảm giác. 5. Lục nhập: quá trình thâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan. 6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa các lục căn với lục trần (giác quan với thế giới bên ngoài). 18
  8. Chương 2: Khái lược lịch sử triết học trước Mác 7. Thụ: là sự cảm thụ (vui, buồn, sướng, khổ). 8. Ái: là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng, từ đây tạo động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý để tạo nghiệp mới. 9. Thủ: giữ lấy, chiếm đoạt cái mà mình yêu thích. 10. Hữu: là sự tồn tại để hưởng cái mà mình chiếm đoạt được. 11. Sinh: đã có nghiệp (hữu) tức là nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả. 12. Lão, Tử: đã có sinh ắt có già và chết. Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nỗi khổ đau nhân loại. Trong 12 nhân duyên ấy thì “Vô minh” (avidya) là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân đầu tiên. Luận đề thứ ba: Diệt đế, cho rằng có thể tiêu diệt được nỗi khổ, đạt tới trạng thái Niết bàn. Khái niệm niết bàn của triết học phật giáo được hiểu theo nghĩa đó là trạng thái con người đã thoát khỏi khổ đau. Luận đề thứ tư:Đạo đế, chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo): 1.Chính kiến (hiểu biết đúng sự thật nhân sinh, là trực kiến của chính bản thân mình). 2. Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn, muốn vậy phải gạt bỏ “ vô minh”). 3. Chính ngữ (giữ lời nói chân chính, ngay thẳng ). 4. Chính nghiệp (giữ đúng trung nghiệp, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm). 5. Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng, tuân theo các điều răn). 6. Chính tinh tiến (rèn luyện không mệt mỏi). 7. Chính niệm (có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát). 8. Chính định (tập trung tư tưởng cao độ, làm cơ sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao). (Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào ba điều học tập, rèn luyện là: Giới - Định - Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ Bát nhã). Tóm lại: Phật giáo là một trào lưu triết học lớn ở Ấn Độ cổ đại, ở giai đoạn đầu, học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng, nó nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời nó cũng nêu lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống lương thiện, từ bi, bác ái. Chính vì thế, ngay từ đầu học thuyết ấy đã đi sâu vào lòng người, truyền bá một cách nhanh chóng và rộng rãi không chỉ ở Ấn Độ mà ở nhiều nước khác. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn của triết học phật giáo là lý giải con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau của cuộc đời có tính chất duy tâm và ảo tưởng. TỔNG KẾT. Triết học Ấn Độ cổ trung đại là một trong hai nền tư tưởng lớn của phương Đông, có một vai trò rất lớn trong quá trình phát triển tư tưởng văn hoá vùng châu Á. 19