Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - Chương V: Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Trường Đại học An Giang

Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hóa, đồng thời là một trong những hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất của những người sản xuất hàng hóa, nên thị trường hoàn toàn có thể mang bản chất xã hội - kinh tế khác nhau, phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sản xuất, trước hết vào chế độ sở hữu thống trị trong từng chế độ xã hội cụ thể.
ppt 85 trang Khánh Bằng 02/01/2024 2980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - Chương V: Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Trường Đại học An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pptbai_giang_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam_chu.ppt

Nội dung text: Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - Chương V: Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Trường Đại học An Giang

  1. Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kiềm hãm tiến bộ khoa học- công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước XHCN trước đây, trong đó có nước ta lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng
  2. Theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì mọi hoạt động của cơ sở đều phải đặt trong một kế hoạch chung của ngành, của địa phương, mọi hoạt động của các ngành, các địa phương phải đặt trong một kế hoạch chung của cả nước, gọi là Kế hoạch Nhà nước. Kế hoạch này, do Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tổng hợp, cắt xén cho cân đối, rồi trình Quốc hội phê duyệt Thủ tướng Chính phủ ký lệnh ban hành. Kế hoạch Nhà nước gồm hàng triệu chỉ tiêu pháp lệnh giao cho từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở sản xuất lớn. Tính chất quan liêu của cơ chế này đã hạn chế và làm triệt tiêu sáng kiến và tính năng động của cơ sở, gây bức xúc cho hàng triệu người lao động ở cơ sở và cả những nhà quản lý các cấp dẫn đến những vụ “vượt rào”, “xé rào”.
  3. Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng.
  4. b. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết TW8 khóa V ( 1985) về giá – lương - tiền; thực hiện Nghị định 25 và Nghị định 26-CP của Chính phủ Tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.
  5. Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “ Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản Phát động xuất, làm giảm năng xuất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong Đổi mới phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
  6. 3. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới: Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của Đảng cũng được đổi mới qua 4 bước như sau: Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị trường. Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn
  7. a. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc: ▪ Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại ▪ Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
  8. Đại hội VII của Đảng (6/1991) xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh hiệu quả, Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.
  9. Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ▪ Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là thành tựu văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị trường không có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể được sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau. Ở bất kì xã hội nào, khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế
  10. b. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X:
  11. ➢ Đại hội IX (tháng 4-2001) nói về nền kinh tế thị trường: Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “ thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bước đột phá mới trong tư duy lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta là tại Đại hội IX của Đảng lần đầu tiên nêu lên khái niệm nước ta đang thực hiện đó là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khái niệm đó về thực chất không khác mệnh đề mà Đảng ta nêu lên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
  12. Hai khái niệm “kinh tế thị trường” và “kinh tế hàng hóa” có cùng bản chất nhưng cấp độ khác nhau. Trong những năm đầu, khi chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nhận thức lý luận và thực tiễn của chúng ta về nền kinh tế mới còn nhiều khoảng trống. Lúc bấy giờ, chúng ta mới bước đầu đi vào quỹ đạo của kinh tế thị trường, trên nhiều mặt cái cũ và cái mới còn đan xen nhau. Trong những năm đầu sau đổi mới, ngay trong giới lý luận nước ta còn tranh luận gay gắt về những vấn đề của kinh tế thị trường. Có thể nói, chúng ta đã đặt chân vào nền kinh tế thị trường, nhưng hiểu biết về nó và hành động theo nó còn rất sơ khai, nhận thức còn chưa thống nhất. Chỉ sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhận thức của chúng ta về nền kinh tế thị trường mới rõ dần. Không thể bằng học tập qua sách vở hoặc thông qua khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài có thể đưa lại cho chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc về kinh tế thị trường chừng nào chúng ta còn chưa bắt tay tổ chức công tác thực tiễn về nó.
  13. Kinh tế tự nhiên→ có gì dùng nấy→săn bắt hái lượm. Kinh tế tự cấp tự túc→người làm hưởng trước → trồng trọt chăn nuôi. Kinh tế hàng hóa→ cái gì tốt đem trao đổi→trao đổi sản phẩm. Kinh tế thị trường→ bán ở đâu, chất lượng, giá cả.
  14. Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
  15. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết đó không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Đến Đại hội IX, chúng ta đã tích lũy được nhiều hơn nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực này. Có thể nói về cơ bản chúng ta đã thiết kế được khung thể chế kinh tế thị trường và vận hành nó (tuy còn nhiều hạn chế) trên đất nước ta. Thời gian đã chín muồi để Đảng ta tuyên bố: “Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
  16. Văn kiện Đại hội IX cũng tiếp tục phát triển thêm những luận điểm mới, khi ghi rõ: Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cũng có nghĩa khẳng định thêm vị trí pháp lý và vai trò tất yếu của các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế nước ta. Từ nay không phải là “cho phép” các thành phần đó tồn tại hay không, mà tất yếu tồn tại như một quy luật khách quan.
  17. Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng nay nhấn mạnh thêm: phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở “một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế Giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ, sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả”. Kinh tế tư bản tư nhân cũng có môi trường và địa bàn hoạt động rộng rãi hơn: “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài ”.
  18. Việc thiết lập đồng bộ các thị trường vẫn tiếp tục như trước đây, nay bổ sung thêm thị trường khoa học và công nghệ, phát triển các dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, phát triển thị trường bảo hiểm. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xóa bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư, phát triển các quỹ hỗ trợ phát triển. Sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp. Mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều việc làm mới. Như vậy, chủ trương phát triển kinh tế thị trường của Đảng ta luôn luôn đi cùng với các biện pháp bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trên từng bước phát triển.
  19. ➢ Đại hội X (năm 2006) nói về kinh tế thị trường: Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
  20. Thứ nhất, về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Như vậy, mục tiêu trên đã thể hiện mục đích của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là vì con người. Con người phải luôn luôn được chú trọng, đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, làm cho mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển.
  21. Thứ hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Chúng ta phải thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là nhằm giải phóng sức sản xuất, giải phóng tiềm năng phát triển trong mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân, mỗi vùng miền là cách để phát huy tối đa nội lực, tạo sức bật để phát triển nhanh và bền vững. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi vì: giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là sự thể hiện định hướng XHCN của nền kinh tế; kinh tế nhà nước là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
  22. Các thành phần kinh tế Kinh tế tập thể B Cá thể Kinh tế Nhà A C Kinh tế nước C¬ cÊu Tiểu tư nhân chủ kinh tÕ nhiÒu TB thµnh phÇn TN KT có vốn đầu tư E D Kinh tế tư bản nước ngoài Nhà nước C¸c thµnh phÇn kinh tÕ ®îc x¸c ®Þnh t¹i §¹i héi X
  23. Để giữ được vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được những vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, chứ không phải dựa vào bao cấp, “xin – cho” hay độc quyền kinh doanh. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hóa là con đường chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh doanh, là cách thức để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng là một phương thức kết hợp để vừa phát huy được những sức mạnh của nhau tạo động lực cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững, vừa hạn chế được cả những mặt tiêu cực của thị trường và những biểu hiện quan liêu, kém hiệu lực của điều tiết nhà nước.
  24. Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội không chỉ để bảo đảm sự phát triển bền vững, mà còn là sự thể hiện rõ định hướng phát triển nền kinh tế. Thể hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong từng chính sách phát triển, chính là để hạn chế tiêu cực của kinh tế thị trường, nhằm từng bước thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người. Tăng trưởng phải đi đôi với phát triển các lĩnh vực xã hội. Bởi lẽ, các lĩnh vực xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là điều kiện cho sự phát triển nhanh và bền vững.
  25. Thứ tư, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, người lao động là người chủ xã hội. Người công nhân dù làm trong xí nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng XHCN. Định hướng XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời đại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Định hướng XHCN ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với XHCN thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi vậy, trong thời gian tới việc đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường ở nước ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
  26.  Xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng  Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó xây dựng kinh tế nhà nước vững mạnh đủ sức nắm giữ vai trò chủ đạo, cùng với nó là kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân  Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đây là yếu tố quan trọng bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế  Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân  Thực hiện sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển ở tất cả các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường  Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội
  27. 4. Ý nghĩa của việc lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Sự lựa chọn mô hình phát triển “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Nói rõ hơn, đây không phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ hoặc rập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa.