Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hoàng Ngọc Vĩnh

Tại Đại hội VII, nghị quyết của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nền tảng của tư tưởng, kim chỉ nam của mọi hành động” . Đại hội IX tháng 4/2001 một lần nữa Đảng ta lại khẳng định điều đó. Đây là bước tiến lớn về tư tưởng của Đảng ta. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên rộng rãi khắp cả nước, khắp mọi ngành nghề.
doc 100 trang Khánh Bằng 29/12/2023 620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hoàng Ngọc Vĩnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_tu_tuong_ho_chi_minh_hoang_ngoc_vinh.doc

Nội dung text: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hoàng Ngọc Vĩnh

  1. Rutxô, Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng Pháp đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người có thể tự do hội họp, tham gia đảng phái, ra báo, phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm của mình trước dư luận Pháp, phê phán bọn quan lại, vua chúa của nước mình và cả bọn thống sứ, toàn quyền Pháp tại Đông Dương. Người còn học được cách làm việc dân chủ ngay trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp, nhất là không khí tranh luận ở Đại hội Tua (tháng 12/1920). Tóm lại, được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và được sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M.Casanh (M.Cachin), P.V.Cutuyariê (Couturier), G.Môngmutxô (G.Monmousseau), Người đã từng bước trưởng thành. Trên hành trình cứu nước, Người đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa gặt hái, vừa gạn lọc, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển. c) Chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ nhất, khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh với một vốn tri thức chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã nhận ra rằng, các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tựu trung chỉ xoay quanh hai đường lối quân chủ hay dân chủ, hai phương pháp cách mạng hay cải lương. Cả hai đường lối và hai phương pháp ấy đều không thỏa mãn được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một lực lượng quốc tế. Trong 10 năm đầu (1911-1920) của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã hoàn thiện cho mình một vốn văn hóa, chính trị và vốn sống thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam nào vào thời ấy có thể so sánh được. Cái bản lĩnh ấy đã giúp Người tiếp thu, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam một cách trung thành mà không sao chép. Thứ hai, khác với các nhà trí thức tư sản phương Tây, khi đến với Chủ nghĩa Mác- Lênin là đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động, Nguyễn Ai Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người tâm sự “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp là vì các “ông bà” ấy đã đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi chưa hiểu. Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”4. Tác phẩm của Lênin, “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã chỉ rõ mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ nó, Người đã tìm thấy “con đường giải phóng của chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn. Thứ ba, khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã tiếp thu phương pháp nhận thức mac-xit, đồng thời theo lối “đắc ý, vong ngôn” của phương Đông. Người vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với 4 Sđd- Tập 10- Trang 126, 128. 10
  2. từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Chủ nghĩa Mác-Lênin, những phạm trù của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới. d) Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Nguyễn Ai Quốc. Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt của Người trong nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản. Thứ hai, đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Cuối cùng, đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sỹ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ Quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chính tất cả những phẩm chất cá nhân đó, đã quyết định việc Nguyễn Ai Quốc tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình. Tóm lại Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng tư tưởng văn hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hoá nhân loại với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh - một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp - tạo nên. 3. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc, mà nó phải trải qua một quá trình gắn liền với quá trình phát triển, lớn mạnh của Đảng và cách mạng Việt Nam. a) 1890-1911: Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng. Đây là giai đoạn Nguyễn Sinh Cung tiếp nhận truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc, hấp thụ văn hóa phương Đông và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, muốn đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước để trở về giúp đồng bào thoát khỏi vòng nô lệ. Đây là giai đoạn gia đình, quê hương, đất nước đã chuẩn bị đầy đủ hành trang yêu nước cho Nguyễn Tất thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong thời kỳ này, ở Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại. b) 1911-1920: Giai đoạn tìm tòi khảo nghiệm con đường cách mạng của Hồ Chí Minh - Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đây là thời kỳ Nguyễn Tất Thành bôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Chính ở quá trình này, Người rút ra được kết luận: Chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đầy đọa, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Thời kỳ này, Hồ Chí Minh đã khảo sát, tìm hiểu Cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười, học tập và đã tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tham gia Đại hội Tua. Năm 1920, khi tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã tìm thấy con đường chân chính cho sự 11
  3. nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Việt Nam cộng sản đầu tiên. Đây chính là mốc đánh dấu sự chuyển biến về chất trong tư tưởng của Nguyễn Ai Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước đến người cộng sản. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”5. c) 1921-1930: Giai đoạn hình thành cơ bản về tư tưởng cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi và phong phú của Người để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp; Sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản Báo Le Paria nhằm truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa. Năm 1923, Người sang Matxcova dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào đoàn chủ tịch Đại hội. Sau đó Người dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ, Cuối 1924, Người về Quảng Châu - Trung Quốc tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, đưa họ về nước hoạt động. Tháng 2/1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình và điều lệ vắn tắt. Các văn kiện này cùng với hai tác phẩm của Người trước đó: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường kách mệnh (1927) đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam (những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc). Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong những năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào dân tộc và giai cấp nước ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 3-2-1930. d) 1930-1945: Giai đoạn vượt thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản - đã xác định cho cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Do không nắm được tình hình thực tế các nước thuộc địa ở phương Đông và Việt Nam, lại bị chi phối của khuynh hướng tả khuynh, Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ai Quốc đã vạch ra trong Hội nghị hợp nhất Đảng. Hội nghị TƯ tháng 10/1930 của Đảng ta, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đã ra quyết nghị thủ tiêu Chánh cương và Sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới đang đến gần, năm 1936, dưới ánh sáng của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, Đảng ta đề ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện tả khuynh, cô độc, biệt phái trước đây và chỉ rõ: Đảng ta học tập kinh nghiệm của Quốc tế Cộng sản, kinh nghiệm của các cuộc vận động cộng sản thế giới, chứ “không phải đem kinh nghiệm của xứ này sang xứ khác một cách như máy”6. 5 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 9, trang 314. 6 Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đảng toàn tập- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2000- Tập 6- Trang 158. 12
  4. Trên thực tế Đảng ta đã trở lại với Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ai Quốc. Nghị quyết TƯ tháng 11/1939 đã khẳng định: “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”7. Điều ấy phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua chủ nghĩa tả khuynh đang chi phối Quốc Tế Cộng sản, chi phối BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là mốc lịch sử không chỉ đánh dấu kỷ nguyên tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn là bước phát triển mở rộng tư tưởng dân quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản thành quyền tự do và độc lập của các dân tộc trên thế giới. e) 1945-1969: Giai đoạn phát triển mới của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến và kiến quốc. Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng thời xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”; Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là nửa thuộc địa nửa phong kiến; Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua tư bản chủ nghĩa trong điều kiện đất nước có chiến tranh, bị chia cắt; Xây dựng Đảng với tư cách là một Đảng cầm quyền; Xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân; Củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc sau khi giành thắng lợi. Vào thời kỳ đổi mới, Đang ta nghiêm túc kiểm điểm những sai lầm do chủ quan, duy ý chí gây nên và nhận thức sâu sắc hơn đối với di sản tinh thần vô giá mà Người đã để lại. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII, Đảng đã khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng của tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Qua những biến động chính trị to lớn của thế giới càng kiểm chứng và khẳng định tính khoa học, tính cách mạng sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh - sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới - là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người không chỉ được ghi nhớ vì Người là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn được ghi nhớ vì Người là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này. III. Ý nghĩa học tập, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Môn tư tưởng Hồ Chí Minh là một môn khoa học lý luận cơ bản của cách mạng Việt Nam. Môn tư tưởng Hồ Chí Minh có hai chức năng quan trọng: Chức năng nhận 7 Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đảng toàn tập- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2000- Tập 6- Trang 539. 13
  5. thức và chức năng hành động. Nó trang bị cho người học: Nhận thức được quy luật phát triển của xã hội Việt Nam, có khả năng nắm bắt và thẩm định được các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa, đoàn kết dân tộc, nâng cao ý chí tự lực tự cường, xây dựng con người Việt Nam mới vì một nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và Nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong các trường đại học và cao đẳng, không chỉ coi trọng học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đặc biệt coi trọng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện Di chúc của Người: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ, Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”8. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam; có nắm được tư tưởng Hồ Chí Minh mới hiểu được đường lối của cách mạng Việt Nam. Cách mạng nước ta có được thắng lợi to lớn như ngày nay trước hết là nhờ có Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng đồng thời cũng là nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, phải nghiên cứu, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời phải đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Phải nhấn mạnh cả hai, nếu chỉ chú ý một vế là không đầy đủ, không đúng với Nghị quyết của Đảng ta. Nghị quyết số 09 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VII), về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc ta Việc Đại hội VII khẳng định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động là một bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới. Khi các thế lực thù địch ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đẩy chúng ta đi chệch hướng thì đấu tranh để bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta”9. Trong tình hình đó, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là để kiên định mục tiêu, nâng cao nhận thức tư tưởng, cải tiến phương pháp và phong cách công tác, góp phần đưa công cuộc đổi mới đi tới những thắng lợi mới. 2. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 8 Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, trang 510. 9 Đảng Cộng sản Việt Nam : Nghị quyết số 09- NQ/TW của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, 2-3. 14
  6. Suốt đời mình, Hồ Chí Minh đã kiên định và nhất quán con đường chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ của tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có tầm thời đại. Thế giới hiện nay đã thay đổi rất nhiều, song cuộc đấu tranh cho độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội vẫn đang diễn ra gay gắt. Các thế lực thù địch và phản động không từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đối với nước ta. Trong điều kiện đó, chúng ta phải làm sao để hội nhập mà vẫn giữ vững được độc lập, chủ quyền của dân tộc. Đại hội IX của Đảng ta đã khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”10. Chính thế, việc nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là nhằm quán triệt tư tưởng của Người: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội”. 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo. Suốt đời mình, Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Người luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới và sáng tạo. Đó là nét đặc sắc trong tinh thần Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh. Hiện nay, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có nhiều điểm khác với cách nghĩ, cách làm của chúng ta cách đây mấy chục năm trước. Muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công trước hết cũng cần phải học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là để thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng của mỗi người. Người thường căn dặn: Học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần cách mạng và khoa học, cái tinh thần biện chứng để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn cách mạng. Phải luôn gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận. ĐỀ TÀI THẢO LUẬN Vì sao trong giai đoạn hiện nay, chúng ta không chỉ học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn phải học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh? Câu hỏi ôn tập 1. Trình bày khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh? 2. Phân tích những nguồn gốc ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh? 3. Vì sao nói chủ nghĩa Mác-Lênin là cội nguồn cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh? 4. Dựa trên cơ sở nào để khẳng định đến năm 1911, gia đình, quê hương và dân tộc đã chuẩn bị đầy đủ hành trang yêu nước cho Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước? 10 Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2001- Trang 81. 15