Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh

- Nghĩa phổ quát: tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và chỉ đạo lại hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
doc 72 trang Khánh Bằng 30/12/2023 2820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_tu_tuong_ho_chi_minh.doc

Nội dung text: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. b. Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người - Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là việc xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định một con đường cách mạng, một hướng đi, và tiếp theo là một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu. - Người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung và lớn nhất của các dân tộc bị áp bức, và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, cần phải thực hiện đại đoàn kết, đại hòa hợp. - Nắm bắt được xu thế của thời đại, Hồ Chí Minh đề ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. c. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc ta. Lần đấu tiên trong lịch sử ta, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, áp bức và xây dựng CNXH trên cả nước. Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt, cuộc chiến đấu của người sẽ là kim chỉ nam cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh, cho thanh niên và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. CHƯƠNG II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤ ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 1. Vấn đề dân tộc thuộc địa a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa - Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc 11
  2. Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung, mà quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống CNTB, Lenin bàn về cuộc đấu tranh chống CNĐQ, Hồ Chí Minh tập trung bàn về đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C.Mác và Lenin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước TBCN, Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. - Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội. Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên CNXH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. “Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của ĐCS, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành cách mạng chống đế quốc và phong kiến cho triệt để. b. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa - Cách tiếp cận từ quyền con người. Chí Minh rất trân trọng quyền con người, đã tìm hiểu và tiêp nhận những nhân tố về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ đó Người đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. - Nội dung của độc lập dân tộc. Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. 12
  3. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vec xây bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Tháng 5/1941 Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền” . Cách mạng tháng Tám thành công, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, nêu cao quyền tự do, độc lập của dân tộc. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hồ Chí Minh thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, Người nêu cao chân lí lớn nhất của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chân lí trên vừa là hành động của dân tộc ta, vừa cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế Người không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”. c. Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước Từ những năm 20 của thế kỷ XX, người đã nhận thấy sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức ngày càng quyết liệt. Cùng với sự kết án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào. Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Người đã đề cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà những 13
  4. người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và cho rằng, đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”. 2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước nhưng luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn đó thể hiện ở: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng CS trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh giai cấp công – nông và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với CNXH, b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH Ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường của các mạng vô sản, ở Người đã có sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH. TT Hồ Chí Minh phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Người khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu CNXH, vì có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm them, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp Người giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. vì thế, lợi ích giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. d. Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác Người nêu cao tinh thần tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng 14
  5. dân tộc trên thế giới. Người chủ trương, phải bằng thắng lợi của cách mạng của mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. TT Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc a. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước, giữa họ có sự tương đồng lớn: số phận của người nô lệ mất nước. Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Dưới tác động của các chính sách khai thác kinh tế và những chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp ở thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí có lợi ích phát triển ngược chiều nhau nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc đi xâm lược và tay sai của chúng. Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ tư hữu, sự bóc lột nói chung. Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc. 15
  6. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, nhưng nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. b. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng cho mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của cả dân tộc. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương thay đổi “chiến lược, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, sang nhấn mạnh đấu tranh dân tộc.” Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, cũng như toàn thắng 1975, trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. 2. Con đường giải phóng dân tộc thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản a. Rút bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó Tất cả những cuộc đấu tranh, những phong trào cứu nước trước đó (trước giai đoạn của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh) đều thất bại. Đất nước ta lâm vào “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước đầu thế kỷ XX này đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới. Mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của cha ông, nhưng Người không tán thành các con đường của họ, mà quyết tâm tìm con đường mới. b. Cách mạng tư sản là không triệt để Người đọc tuyên ngôn độc lập của nước mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ; đọc tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mạng tư sản là cách mạng không đến nơi, cách mạng không triệt để. Bởi vậy, Người không đi theo con đường của cách mạng tư sản. 16
  7. c. Con đường giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh nhận thấy cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là cách mạng vô sản mà còn là cách mạng dân tộc. Người nhận thấy trong lý luận của V.I.Lenin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Trong bài Cuộc kháng Pháp, Người viết: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Vượt qua các nhà tư tưởng và cách mạng đương thời, người đến với chủ nghĩa Mác – Lenin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. 3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh đạo a. Cách mạng trước hết phải có Đảng Muốn làm cách mạng trước phải làm cho dân giác ngộ phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu. Trong tác phẩm Đường cách mệnh: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. b. Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất Năm 1930, Người sáng lập Đảng CS Việt Nam, là một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lenin làm nòng cốt, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, mật thiết liên lạc với quần chúng. Kết hợp lý luận Mác – Lenin về Đảng CS với thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin trên một loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đây là một đặc điểm, cũng là một 17
  8. ưu điểm của Đảng. Do đó, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của Đảng. 4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc a. Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung chứ không phải là việc của một hai người”. Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo đấu tranh cách mạng của Người. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. b. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh rất nhấn mạnh vai trò, động lực cách mạng của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết Công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Từ đó, Người khẳng định: công nông “là gốc cách mệnh”. Hồ Chí Minh không xem nhẹ vai trò của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. 5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc a. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo Người khẳng định: “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa ” 18
  9. Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng công sản quan tâm đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực tự giải phóng. b. Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này, vô hình trung đã làm giảm tính năng động và sáng tạo của cách mạng thuộc địa. Theo Hồ Chí Minh, hai cuộc cách mạng này có mối quan hệ với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là quan hệ bình đẳng chứ không phải là qun hệ chính – phụ. Nhận thức đúng vai trò và vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc, Người cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luện điểm sáng tạo có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn, góp phần vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. 6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực a. Tính tất yếu của bạo lực cách mạng Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dung bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh coi bạo lực là bạo lực của quần chúng. 19
  10. Trong thời lỳ vận động giải phóng dân tộc 1940 – 1945, Người và Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của bạo lực cách mạng gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo sáng kiến của Người, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Đó là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị quần chúng, một lực lượng cơ bản và giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vai trò quyết định trong việc làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng. b. Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hòa bình TT Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các đế quốc xâm lược. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Tư tưởng bạo lực cách mạng với tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau. c. Hình thái bạo lực cách mạng Theo Người, trong sự nghiệp cách mạng, kháng chiến, kiến quốc, “lực lượng chính là ở dân”. Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Xuất phát từ tương quan lực lượng, Hồ Chí Minh không chủ trương tiến hành chiến tranh thông thường mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, phương châm chiến lược đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong TT Hồ Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng. Trong chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế. người chủ trương: “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”. Đấu tranh kinh tế là ra sức gia tăng sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. 20
  11. Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng cũng không kém phần quan trọng. Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa – vì độc lập, tự do, làm cho khả năng chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Người chủ trương sử dụng phương châm chiến lược cách mạng lâu dài. Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động, trông chờ sự giúp đỡ bên ngoài. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong TT Hồ Chí Minh. KẾT LUẬN 1. Làm phong phú học thuyết mác – Lenin về cách mạng thuộc địa - Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc - Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc 2. Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam - Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 - Thắng lợi của 30 năm chiến tranh cách mạng 1945 – 1975 CHƯƠNG III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CNXH Ở VIỆT NAM 1. Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam Hồ Chí Minh quan niệm: tiến lên CNXH là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. 21