Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin là “hệ thống các quan điểm và học thuyết”  khoa học, gồm triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, do V.I.Lênin bảo vệ và phát triển. Chủ nghĩa đó hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng những giá trị lịch sử tư tưởng nhân loại để giải thích, nhận thức thực tiễn thời đại; là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng;
doc 283 trang Khánh Bằng 30/12/2023 2660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin.doc

Nội dung text: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin

  1. diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển; lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng- trong lịch sử toàn thế giới- của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản Về quan niệm duy vật về lịch sử, hai ông đã trình bày quan điểm chủ đạo là sản xuất vật chất, xét đến cùng, là yếu tố quy định đời sống chính trị và tư tưởng của mỗi xã hội, mỗi thời đại lịch sử. Chính sản xuất vật chất, được tiến hành trong khuôn khổ một phương thức sản xuất nhất định, ở một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một quan hệ sản xuất phù hợp, là cơ sở khách quan của tất cả những sự biến trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tức là trong lĩnh vực kiến trúc thượng tầng và các hình thái ý thức xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng tư tưởng này vào xem xét xu hướng vận động của xã hội tư sản và chỉ ra rằng do sự phát triển của bản thân lực lượng sản xuất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang vượt quá khuôn khổ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà nền sản xuất ấy đang lâm vào những cuộc khủng hoảng có tính chất chu kỳ và ngày càng trầm trọng. Biểu hiện chính trị của cuộc khủng hoảng đó là những cuộc đấu tranh ngày càng có tính chất chính trị, ngày càng tự giác của giai cấp vô sản. Các ông còn chỉ rõ pháp quyền tư sản chẳng qua là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật- cái ý chí mà nội dung bị quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp ấy; sản xuất vật chất quyết định sản xuất tinh thần, tư tưởng thống trị trong một thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế Về lý luận đấu tranh giai cấp, cũng trong Lời tựa trên, Ph.Ăng ghen viết, do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thuỷ tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị. Nguyên nhân kinh tế của hiện tượng đó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ đó đã làm cho xã hội, vốn không có khác biệt giai cấp, phân chia thành những giai cấp khác nhau, trong đó những giai cấp nắm được tư liệu sản xuất, điều hành nền sản xuất xã hội thống trị, bóc lột những giai cấp khác Vận dụng quan điểm này vào xem xét xã hội tư bản, hai ông chỉ ra rằng cuộc đấu tranh giai cấp hiện thời, giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, đã phát triển tới mức là, 11
  2. giai cấp vô sản sẽ không thể lật đổ giai cấp tư sản, không thể tự giải phóng cho mình nếu không đạp đổ toàn bộ chế độ tư hữu,- mà biểu hiện trực tiếp và cao nhất chính là chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa- xoá bỏ toàn bộ các giai cấp, giải phóng toàn xã hội. Các ông dự đoán rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu sẽ dẫn tới cuộc cách mạng vô sản trên quy mô toàn thế giới và những yếu tố phá sập nền tảng của giai cấp tư sản là nền sản xuất đại công nghiệp và sự lớn mạnh về lực lượng cũng như ý thức chính trị của giai cấp vô sản hiện đại dẫn đến sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như nhau. Phần lý luận của tác phẩm kết thúc với định nghĩa kinh điển về bản chất của xã hội cộng sản tương lai "Thay cho xã hội tư sản cũ với những giai cấp và những sự đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"11. Kết luận này đã xác định mục đích cuối cùng của xã hội cộng sản và là nguyên tắc nhân đạo nhất của chủ nghĩa cộng sản. - C.Mác, Ph.Ăngghen với quá trình phát triển chủ nghĩa Mác 1849-1895. Sau tháng 2 năm 1948, triết học Mác tiếp tục được bổ sung và phát triển trong sự gắn bó giữa tư tưởng với thực tiễn cách mạng của C.Mác và Ph.Ăngghen. Từ kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bằng tư duy lý luận sâu sắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết những tác phẩm cơ sở cho những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ và chính trong quá trình đó, học thuyết của các ông cũng không ngừng được phát triển. Các tác phẩm chủ yếu của C.Mác như Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Ngày 18 tháng Sương Mù của Lui Bônapactơ, Phê phán Cương lĩnh Gôta v.v cho thấy việc tổng kết thực tiễn và các thành tựu khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển lý luận. Nhiều vấn đề, đặc biệt những vấn đề phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được C.Mác phát triển trong các tác phẩm nghiên cứu kinh tế- chính trị, tiêu biểu là bộ Tư bản. Tư bản (1843-1883) là công trình đồ sộ12 bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung; là hình mẫu của sự phân tích khoa học về hình thái xã hội phức tạp nhất, là tác 11 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.4. tr.628 12 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004. Các tập 23, 24, 25 (2 phần), 26 (3 phần) 12
  3. phẩm kinh tế-chính trị, triết học và lịch sử vĩ đại nhất của C.Mác. Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Tư bản chỉ ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản, tạo cơ sở lý luận kinh tế để thiết lập xã hội cộng sản. Nội dung cơ bản nhất của Tư bản là xuất phát từ sự vận động của kinh tế tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã trình bày những nguyên lý triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học trên tinh thần biện chứng của sự phát triển lịch sử-xã hội. Có thể khái quát nội dung Tư bản từ góc độ triết học hai vấn đề chủ yếu là quan niệm duy vật lịch sử và phép biện chứng Quan niệm duy vật về lịch sử. Xuất phát từ phương thức sản xuất, tức từ hai mặt của một quá trình sản xuất vật chất trong đời sống xã hội là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên 13. Có thể khái quát rằng, toàn bộ quan niệm duy vật lịch sử của C.Mác trong tác phẩm thể hiện ở phạm trù hình thái kinh tế-xã hội. Bản chất của phạm trù này nằm ở quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người bị quy định bởi các yếu tố cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; các yếu tố khác trong lịch sử xã hội cũng có vai trò chi phối tác động, nhưng trên cơ sở các yếu tố cơ bản đó. Tính lịch sử-tự nhiên của sự phát triển xã hội được chứng minh bởi sự phát triển vừa tuần tự vừa nhảy vọt, vừa đa dạng phong phú, phức tạp vừa thể hiện những quy luật phổ biến có ý nghĩa xuyên suốt toàn bộ tiến trình lịch sử xã hội loài người Một vấn đề khác, nổi bật, đồng thời là kết quả của sự vận động nội tại của nội dung tác phẩm- đó là phép biện chứng duy vật. Xuất phát từ việc nghiên cứu hàng hóa với tư cách là tế bào kinh tế của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã từng bước thể hiện bản chất của chủ nghĩa tư bản thông qua phương pháp lịch sử-lôgíc, trừu tượng-cụ thể. Quá trình vận động và phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện lịch sử của nó với tính đa dạng, phong phú, phức tạp của một hệ thống, một phương thức sản xuất. Cho nên, lịch sử là bản thân quá trình sản xuất; lôgíc là bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; là bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác cũng phân tích rõ mối quan hệ biện chứng giữa cái trừu tượng với cái cụ thể; theo đó, cái trừu tượng chỉ là 13 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.23, tr.21 13
  4. sự phản ánh một mặt, một yếu tố của quá trình nhận thức đối tượng, cái cụ thể lý tính, về bản chất, là sự phản ánh khái quát các thuộc tính của đối tượng trong tư duy. Bởi vậy, nền sản xuất xã hội biểu hiện từ sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đến bản chất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng chính là con đường đi từ trừu tuợng đến cụ thể trong tư duy. Các quy luật của phương pháp biện chứng duy vật như quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định của phủ định, đều được C.Mác vận dụng vào quá trình phân tích bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp biện chứng của C.Mác là một biểu hiện sự thống nhất giữa nội dung với phương pháp; là phương pháp nhận thức thông qua sự vận động của nội dung. Tư bản là một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác. Bằng phương pháp biện chứng duy vật, C.Mác đã làm rõ quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người thông qua việc phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; ông đã vạch ra điều bí mật quan trọng nhất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ ra tính hai mặt của hàng hoá; sức lao động là hàng hoá; phân chia tiền vốn thường xuyên và tiền vốn tạm thời v.v và đó là những cơ sở của học thuyết về giá trị thặng dư, cùng với quan niệm duy vật về lịch sử và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là các phát minh vĩ đại và quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác. Năm 1875, C.Mác viết Phê phán Cương lĩnh Gôta 14, đây là tác phẩm lý luận quan trọng nhất sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và bộ Tư bản. Trong tác phẩm, C.Mác làm sâu sắc và phong phú thêm học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội (nêu và vận dụng các khái niệm tư liệu lao động, thời gian lao động, thu nhập lao động, tổng sản phẩm xã hội v.v). Ông cũng phát triển thêm học thuyết về nhà nước và cách mạng “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”15. Trong khi đó, Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa Mác thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý luận triết học duy tâm, siêu hình và cả những 14 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.19 15 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.19, tr.47 14
  5. quan niệm duy vật tầm thường ở những người tự nhận là người mácxít nhưng lại không hiểu đúng thực chất chủ nghĩa Mác. Với những tác phẩm của mình, Ph.Ăngghen đã trình bày chủ nghĩa Mác trong một hệ thống lý luận; những ý kiến bổ sung, giải thích của Ph. Ăngghen sau khi C.Mác qua đời đối với một số luận điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển chủ nghĩa Mác. c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu khách quan của việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất của chủ nghĩa tư bản thể hiện tinh vi, tàn bạo hơn; mâu thuẫn đặc thù vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Tại các nước thuộc địa, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc với tính thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp công nhân ở chính quốc. Nước Nga là trung tâm của phong trào này; giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôsêvích là ngọn cờ đầu của phong trào cách mạng thế giới. Những năm cuối của thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, có những phát minh vật lý mang tính vạch thời đại, làm đảo lộn căn bản quan niệm ngàn đời về vật chất. Đây là cơ sở để chủ nghĩa Makhơ- một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan- tấn công chủ nghĩa Mác; một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng về thế giới quan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và hành động của phong trào cách mạng. Đồng thời, tuy chủ nghĩa Mác đã được truyền bá vào nước Nga; nhưng để bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh 15
  6. nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại v.v đã nhân danh đổi mới chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa đó. Trong bối cảnh đó, nhu cầu khách quan về việc khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết luận về thế giới quan và phương pháp luận triết học cho các khoa học chuyên ngành; đấu tranh chống lại những trào lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt ra. Hoạt động lý luận của V.I.Lênin nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử đó. - Vai trò của V.I.Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác được chia thành ba thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu khách quan của thực tiễn nước Nga. Trong thời kỳ 1893-1907, V.I.Lênin dùng lý luận chống lại phái dân túy 16 thể hiện rõ nét trong các tác phẩm Những “người bạn dân là thế nào” và họ đấu tranh chống những người dân chủ-xã hội ra sao? (1894) và tác phẩm Làm gì? (1902). Trong tác phẩm thứ nhất, V.I.Lênin đã phê phán tính duy tâm của phái dân túy về những vấn đề lịch sử-xã hội và chỉ ra rằng, thông qua việc xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen, phái dân túy đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Đồng thời, tác phẩm cũng đưa ra nhiều tư tưởng về vai trò quan trọng của lý luận, thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù này. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I.Lênin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trước khi giành được chính quyền; trong đó các vấn đề về đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng được đề cập rõ nét; đặc biệt, V.I.Lênin nhấn mạnh quá trình hình thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Trước thềm cách mạng Nga 1905-1907, V.I.Lênin tập trung viết về cơ sở thực tiễn của cuộc cách mạng được coi là cuộc tổng diễn tập cho cách mạng Tháng Mười (Nga) năm 1917. Tác phẩm Hai sách lược của Đảng Dân chủ-Xã hội trong cách mạng dân chủ (1905) phát triển chủ nghĩa Mác về những vấn đề như phương pháp; 16 Là phái theo hệ tư tưởng tư sản duy tâm mà đại diện tiêu biểu là Mikhailốpxki, Bakumin và Plêkhnốp. Quan điểm chính của phái này là tuyệt đối hóa vai trò cá nhân, lấy công xã nông thôn làm hạt nhân của chủ nghĩa xã hội; nông dân dưới sự lãnh đạo của trí thức là động lực chính của cách mạng và chủ trương dùng khủng bố cá nhân để đấu tranh 16
  7. nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan; vai trò của quần chúng nhân dân; của các đảng chính trị v.v trong cách mạng ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Trong thời kỳ 1907-1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909). Tác phẩm khái quát từ góc độ triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên. Đồng thời bảo vệ và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác; phê phán triết học duy tâm chủ quan (đặc biệt là của Makhơ và Avênariút) đang chống lại chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng với mục đích làm sống lại chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết của Béccli và Hium. Trong tác phẩm, vấn đề cơ bản của triết học và phạm trù vật chất có ý nghĩa hệ tư tưởng và phương pháp luận hết sức to lớn. "Nếu cho rằng cái thứ nhất là giới tự nhiên, là vật chất, là vật thể, là thế giới bên ngoài và cho rằng cái thứ hai là ý thức, là cảm giác, là tinh thần, tâm lý v.v, (thì) đó là vấn đề cội rễ, vấn đề trên thực tế tiếp tục phân chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn" 17. Đồng thời, khi chỉ ra sự biện chứng giữa tính tuyệt đối với tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất với ý thức, V.I.Lênin cho rằng "sự đối lập giữa vật chất với ý thức có nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối"18. Trong tác phẩm, V.I.Lênin còn vận dụng phép biện chứng vào xây dựng học thuyết phản ánh. Đó là những vấn đề như chân lý, tính khách quan và tính cụ thể của chân lý; biện chứng giữa chân lý tuyệt đối với chân lý tương đối. Đồng thời V.I.Lênin cũng làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác về thực tiễn, ông nhấn mạnh "Quan điểm của cuộc sống, của thực tiễn cần phải trở thành quan điểm đầu tiên và quan điểm cơ sở của lý luận nhận thức" 19. Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về nhận thức, V.I.Lênin cũng chỉ ra sự thống nhất bên trong, không tách rời giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử; sự thống nhất của những luận giải duy vật về tự nhiên, về xã hội, về con người và tư duy của nó. Năm 1913, 17 V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.18, tr.356 18 V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.18, tr.173 19 V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.18, tr.145 17
  8. V.I.Lênin viết tác phẩm Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác; tác phẩm nêu nguồn gốc lịch sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác. Tác phẩm Bút ký triết học (1914-1916) là những tóm tắt một số tác phẩm triết học, Những bài giảng về lịch sử triết học và Những bài giảng về triết học lịch sử của Hêghen; những tác phẩm của Phoiơbắc và Lắcxan; Siêu hình học của Arítxtốt và một loạt những tác phẩm khác theo chuyên ngành triết học và khoa học tự nhiên. Trong tác phẩm, V.I.Lênin tiếp tục khai thác "hạt nhân hợp lý" của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất của các mặt đối lập. Năm 1917, V.I.Lênin viết tác phẩm Nhà nước và cách mạng; trong tác phẩm này vấn đề nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng và vai trò của đảng công nhân và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được đề cập rõ nét. Khi biết tin về cuộc cách mạng Tháng Hai năm 1917, V.I.Lênin lập tức quay về Tổ quốc; ông viết cho báo Sự Thật “Những bức thư gửi từ xa”, trong đó nói về tính tất yếu sự chuyển hoá của cách mạng dân chủ tư sản vào cách mạng xã hội chủ nghĩa và những vấn đề về bộ máy nhà nước của giai cấp vô sản. Ngày 4 tháng 4 năm 1917, V.I.Lênin viết Luận cương Tháng Tư, trong đó khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa; đưa ra tư tưởng về nhà nước Xôviết, coi đó là hình thức của chuyên chính vô sản; vạch ra những nhiệm vụ chính trị và kinh tế mà nhà nước đó phải thực hiện và chỉ ra những nguồn gốc vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm Những người Bônsêvích có thể giữ vững được chính quyền nhà nước hay không? (10-1917), V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về cách mạng; về chuyên chính vô sản; về những con đường của sự nghiệp xây dựng xã hội không có giai cấp và các giai đoạn phát triển của nó. Thời kỳ 1917-1924. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917 mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này làm nẩy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà sinh thời C.Mác và Ph.Ăng ghen chưa thể hiện; V.I.Lênin tiếp tục tổng kết thực tiễn để đáp ứng nhu cầu đó bằng các tác phẩm như Nhiệm vụ tiếp theo của chính quyền Xôviết (1918); Bệnh ấu trĩ “tả 18
  9. khuynh” trong phong trào cộng sản (1920); Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki và Bukharin (1921) v.v. Ông cho rằng việc thực hiện kiểm tra, kiểm soát toàn dân; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa là những điều kiện cần thiết để chuyển sang xây dựng "chủ nghĩa xã hội kế hoạch". V.I. Lênin cũng nhấn mạnh tính lâu dài của thời kỳ quá độ, không thể tránh khỏi phải đi qua những nấc thang trên con đường đó. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thời bình, V.I.Lênin tiên đoán được sự nguy hiểm của việc áp dụng những chính sách kinh tế thời chiến. Ông viết tác phẩm Về chính sách kinh tế mới (1921); trong đó, khẳng định vai trò kinh tế hàng hóa trong điều kiện nền sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những tác phẩm cuối đời như Về tập thể hoá nông nghiệp; Về cuộc cách mạng của chúng ta; Thà ít mà tốt, Cương lĩnh của chúng ta v.v, V.I.Lênin nhận thấy sự quan liêu đã bắt đầu xuất hiện trong nhà nước công nông non trẻ nên đề nghị những người cộng sản cần thường xuyên chống ba kẻ thù chính là sự kiêu ngạo, ít học và tham nhũng. V.I.Lênin cũng chú ý đến việc chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng chủ nghĩa Mác, "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống"20. Di sản kinh điển của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các đảng cộng sản. Thiên tài về lý luận và thực tiễn của ông trong việc kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho học thuyết của mình là chủ nghĩa Mác-Lênin. d. Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới Chủ nghĩa Mác-Lênin có những ảnh to lớn lên thực tiễn phong trào công nhân và nhân dân lao động thế giới. Cách mạng tháng 3 năm 1871 ở Pháp được coi là sự 20 V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.4, tr 232 19