Giáo trình Chính trị học - Bùi Quang Thanh
Môn học nhằm mục đích: Cung cấp một số hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống quý báu của dân tộc và của giai cấp công nhân Việt Nam. Môn học góp phần đào tạo người lao động bổ sung vào đội ngũ giai cấp công nhân, tham gia công đoàn Việt Nam, giúp người học có ý thức rèn luyện, học tập đáp ứng yêu cầu về tri thức và phẩm chất chính trị phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chính trị học - Bùi Quang Thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- giao_trinh_chinh_tri_hoc_bui_quang_thanh.doc
Nội dung text: Giáo trình Chính trị học - Bùi Quang Thanh
- Bài 1 KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tổng kết: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Thực hiện tốt điều đó, hơn hai mười năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử. Trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cần phải lý giải đúng đắn về lý luận và thực tiễn. Nhận thức đúng giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta là yêu cầu cần thiết và quan trọng. I. C. MÁC, PH. ĂNGGHEN SÁNG LẬP HỌC THUYẾT 1. Các tiền đề hình thành Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết lôi cuốn đông đảo quần chúng trên thế giới nhận thức và cải tạo xã hội phát triển, được hình thành từ những tiền đề: Tiền đề kinh tế-xã hội: Từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển mạnh ở nhiều nước châu Âu. Giai cấp công nhân hiện đại ra đời và phát triển nhưng tình cảnh của họ rất khổ cực. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng phát triển gay gắt và đã bùng nổ các cuộc đấu tranh tự phát. Tiêu biểu nhất là các cuộc khởi nghĩa quy mô lớn của công nhân dệt thành phố Lyông ở Pháp (1831-1834), phong trào hiến chương của công nhân Anh (1838-1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Xilêdi nước Đức (1844), các cuộc khởi nghĩa tự phát bộc lộ nhiều hạn chế và đều thất bại. Tuy vậy, các cuộc đấu tranh đó đã mở đầu thời kỳ đấu tranh độc lập của giai cấp công nhân đặt ra những yêu cầu giải đáp về lý luận mới có thể dẫn đường cho nó đi tới thắng lợi. Những điều kiện kinh tế xã hội trong lòng xã hội tư bản và sự phát triển lớn mạnh của phong trào công nhân là “mảnh đất hiện thực” đòi hỏi cho sự hình thành và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác- Ăngghen. Những tiền đề về lý luận và khoa học: Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XIX ở Châu Âu đã xuất hiện những đỉnh cao về tư tưởng lí luận TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 11
- mà tiêu biểu là trào lưu triết học cổ điển Đức (Hêghen, Phơbách), các học thuyết kinh tế tiến bộ ở Anh (Adam Xmít, Đavít Ricácđô) chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán Pháp (H. Xanhximông, C. Phuriê, R. Ôoen), C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển các đỉnh cao tư tưởng lý luận đương thời để xây dựng học thuyết mới. Thế kỷ XIX đã xuất hiện nhiều học thuyết khoa học mới trên nhiều lĩnh vực. Tiêu biểu là học thuyết về sự tiến hoá các loài của Đacuyn, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Lômôxốp, học thuyết về sự phát triển của tế bào Ph.Ăngghen của Svác và Slayđen và các thành tựu khoa học khác nhau về hoá học, cơ học Sự phát minh và ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học đã củng cố lý luận của Mác-Ăngghen. Vai trò nhân tố chủ quan của C.Mác-Ăngghen. Các Mác (1818-1883), Phiđich Ăngghen (1820-1895) có kiến thức thiên tài trên nhiều lĩnh vực khoa học, như triết học, kinh tế chính trị học, toán học, quân sự. Đặc biệt, họ là những người hoạt động gắn bó và hiểu biết sâu sắc phong trào công nhân và nhân dân lao động. Họ có điểm giống nhau là tìm thấy sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân hiện đại và quần chúng nhân dân lao động. Từ tháng 8-1844 C.Mác và Ph.Ăngghen gặp nhau và nhanh chóng nhất trí về tư tưởng. Hai ông bắt đầu cộng tác với nhau trên nhiều lĩnh vực và chuyển biến từ lập trường duy tâm sang duy vật, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân. Qua nghiên cứu sâu sắc, kế thừa, phát triển những đỉnh cao lý luận đương thời, với tư duy khoa học và hiểu biết sâu sắc thực tiễn vận động của phong trào công nhân quốc tế, hai ông đã đưa chủ nghĩa Các Mác xã hội không tưởng trở thành học thuyết khoa học. Triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học là ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác. 2. Sự ra đời và phát triển học thuyết Mác (1848-1895) Sự ra đời và đặt nền móng phát triển của học thuyết Mác gắn liền với tên tuổi của Mác, Ăngghen. Đại hội II của Đồng minh những người cộng sản (12-1847) đã yêu cầu Mác-Ăngghen dự thảo Tuyên ngôn ra đời của Đồng minh, vừa có tính chất lý luận và là cương lĩnh TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 12
- hoạt động của tổ chức này. Cuối tháng 2-1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã được thông qua và công bố ở Luânđôn, đặt dấu mốc ra đời chủ nghĩa Mác. Kế thừa và phát triển rực rỡ những tinh hoa trí tụê của nhân loại, qua nắm bắt thực tiễn trong phong trào công nhân những năm 1848- 1849 ở Pháp và một số nước Châu Âu, nghiên cứu những kinh nghịêm thất bại của công xã Pari (1871), Mác-Ăngghen đã viết nhiều tác phẩm như “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Nội chiến Pháp”, bộ “Tư bản”. Các tác phẩm của Mác-Ăngghen đã đề cập rất toàn diện về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa tư bản, về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Hai ông đã tổng kết phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và đề ra những vấn đề cơ bản có tính chất nguyên lý về cách mạng vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giá trị lý luận tiêu biểu mà Mác-Ăngghen là đã sáng tạo và cống hiến cho nhân loại trước hết là về triết học. Triết học Mác không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng con đường cách mạng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Nó đòi hỏi khi xem xét mỗi sự vật hiện tượng phải theo quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử mà cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là một thành tựu vĩ đại của triết học Mác. Việc chuyển biến từ hình thái này sang hình thái kinh tế-xã hội khác là do sự tri phối của các quy luật khách quan và phải thông qua quá trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt. Với quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về lý luận hình thái kinh tế-xã hội, lý luận về đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, chủ nghĩa Mác đã đem lại cơ sở khoa học cho việc nhận thức về các quy luật của xã hội và hoạt động tự giác của giai cấp công nhân cùng những người cách mạng trên thế giới. Học thuyết giá trị thăng dư của Mác đã vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của xã hội tư bản, từ đó cho ta thấy rõ bản chất của giai cấp tư sản, vai trò địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong sự phát triển của nhân loại. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác chỉ rõ giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc đấu TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 13
- tranh để xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng thành công xã hội mới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu để thay thế chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua thời kì quá độ để cải biến cách mạng xã hội toàn diện xã hội cũ, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng nhất, có tính kỷ luật chặt chẽ, có khối đại đoàn kết liên minh công - nông, có tinh thần quốc tế nên có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng vô sản thắng lợi. Cùng với sáng tạo ra học thuyết lý luận, C.Mác, Ph.Ăngghen đã tích cực hoạt động trong phong trào công nhân. Hai ông là lãnh tụ, tổ chức vận động thành lập quốc tế I (1863-1876), là tổ chức lãnh đạo của phong trào công nhân Quốc tế. Sau 12 năm hoạt động, Quốc tế I có vai trò rất to lớn, đã xây dựng nền móng cho sự lớn mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Năm 1889, Ph.Ăngghen tổ chức thành lập quốc tế II để tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân quốc tế, mở ra thời kỳ phát triển theo bề rộng của phong trào công nhân ở hầu khắp các nước trên thê giới. Hàng loạt các đảng vô sản của giai cấp công nhân trên thế giới đã được thành lập. Sau khi Ph.Ăngghen mất (1895), Quốc tế II dần dần mất hết tính chất cách mạng và rơi vào chủ nghĩa cơ hội và phản động. II. V. I. Lênin phát triển học thuyết Mác (1895-1924) 1. Sự phát triển của V. I. Lênin về lý luận cách mạng Cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, nghiên cứu sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V. I. Lênin đã tổng kết, nêu ra 5 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền; tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính; xuất khẩu tư bản; sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền; sự phân chia thế giới về V. I. Lênin lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc. Tính đến năm 1914, tất cả các nước Á, Phi đã trở thành thuộc địa của Phương Tây, chủ nghĩa tư bản ở Nga bắt đầu phát triển, phong trào công nhân Nga phát triển rất nhanh. Nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng thế giới. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 14
- Kế thừa lý luận của Mác, Ăngghen và qua thực tiễn hoạt động cách mạng ở Nga, Vơlađimia Ilích Lênin (1870-1924) đã phát triển lý luận mới trên nhiều lĩnh vực. Sau khi phân tích đặc điểm và địa vị của chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ rõ, cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí một nước. Nơi yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Người nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng “Vô sản giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Theo V.I.Lênin, phong trào công nhân phát triển tự phát thì chỉ đến công đoàn chủ nghĩa. Lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác, khi đã thâm nhập vào trong phong trào công nhân sẽ trở thành sức mạnh vật chất, làm cho phong trào công nhân trở thành tự giác. Chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân sẽ tất yếu hình thành Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân được xây dựng theo những nguyên tắc của một Đảng kiểu mới. Đảng đã lấy lý luận chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, có Điều lệ với các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt chặt chẽ, các mối quan hệ mật thiết với quần chúng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội mọi hình thức. Lênin đưa ra lý luận mới về chiến tranh và hòa bình; nhà nước và cách mạng. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, Người kêu gọi những nhà cách mạng Nga hãy tích cực hoạt động, “biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”. Dưới sự lãnh đạo của V. L Lênin, Đảng Cộng sản (B) Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga tiến hành cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Chủ nghĩa Lênin chính là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. 2. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Lý luận về chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực trên đất nước Nga. Tháng 3-1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) ra đời. Các sự kiện đó tác động mạnh mẽ làm cho cách mạng thế giới phát triển thành cao trào lớn mạnh. Hàng loạt các Đảng Cộng sản ở các nước được thành lập. Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, chống thù trong giặc ngoài (1917 TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 15
- -1920), nước Nga, sau đó là Liên Xô (12-1922) bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, V. I. Lênin đã phát triển lý luận về chiến tranh, hòa bình và cách mạng; về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã tiếp tục phát triển lý luận của mình trên một loạt vấn đề mới. Người chỉ rõ lý luận về những nhiệm vụ của của chính quyền Xô Viết, về dân chủ và chuyên chính vô sản; thực hành chính sách kinh tế mới; tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa, những nhiệm vụ kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản; tiến hành công nghiệp hóa, tập thể hóa , thực hành cách mạng tư tưởng văn hóa; phát triển các đoàn thể dưới chủ nghĩa xã hội; chống quan liêu trong bộ máy nhà nước. Người nêu rõ các nguyên tắc về xây dựng đảng vô sản kiểu mới và xây dựng Quốc tế Cộng sản. Đảng phải đoàn kết, thống nhất, lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng, tiến hành cách mạng vô sản phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có kỷ luật, tự giác và nghiêm minh, lấy phê bình, tự phê bình làm động lực phát triển. Đảng phải hoạt động ở bất cứ nơi nào có quần chúng và phải luôn đề phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, V. I. Lênin qua đời. Chủ nghĩa Mác- Lênin đã trở thành học thuyết soi đường cho phong trào cộng sản, công nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới tiếp tục đấu tranh cách mạng đến thắng lợi. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết có giá trị to lớn và bền vững vì nó đưa ra mục tiêu cao đẹp, có nội dung khoa học, có phương pháp thực hiện đúng đắn và được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm, đã thúc đẩy lịch sử nhân loại tiến lên. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu và con đường, lực lượng, phương pháp để đạt được mục tiêu là giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; đưa con người và các dân tộc trên toàn thế giới phát triển toàn diện, bình đẳng, tự do, ấm no và hạnh phúc. Mục tiêu đó của Chủ nghĩa Mác- Lênin vừa có giá trị nhân văn cao cả, phù hợp với khát vọng tự nhiên của con người, đem lại hạnh phúc cho cộng đồng tất cả con người, vì vậy về cơ bản nó không bị lỗi thời. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng. Nó mang bản chất khoa học vì ra đời trên cơ sở chín TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 16
- muồi của các tiền đề kinh tế, xã hội; nó kế thừa và phát triển những tinh hoa trí tuệ tư tưởng lý luận và khoa học của nhân loại; nó được sáng lập bởi những lãnh tụ thiên tài và hiểu sâu sắc phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ nghĩa Mác-Lênin cung cấp cho ta thế giới quan và phương pháp luận để nhìn nhận đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nhận thức của con người. Học thuyết này không chỉ để hiểu và giải thích thế giới mà vấn đề căn bản là cải tạo và phát triển thế giới. Nó luôn đòi hỏi phải phát hiện quy luật vận động của thực tiễn xã hội với tinh thần cách mạng. Nó có khả năng tự phê phán, thường xuyên đổi mới và phát triển. Chủ nghĩa Mác-Lênin, với lập trường duy vật luôn gắn bó và cải tạo thực tiễn; lấy thực tiễn là thước đo kiểm nghiệm, là tiêu chuẩn của chân lý. Nó là một học thuyết mở, năng động với vai trò là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam định hướng hành động, nó đòi luôn hỏi bổ sung, phát triển năng động sáng tạo. Không có học thuyết nào có mục tiêu cao đẹp hơn mục tiêu đã nói trên của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, khi nghiên cứu, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi người cần độc lập tự chủ, nắm lấy bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết để vận dụng sáng tạo vào tình hình cụ thể, khắc phục cả hai khuynh hướng tư tưởng xét lại hoặc giáo điều, máy móc. III VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN. 1. Vận dụng và phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội (1924-1991) Từ 1924 đến nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản trên thế giới trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nó đã được vận dụng sáng tạo vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh cách mạng trong điều kiện cụ thể của từng nước để đề ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng nước mình, bổ sung, làm phong phú và phát triển lý luận. Đó là biểu hiện sáng tạo và sức sống mới về mặt thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Qua 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1921-1941), Liên Xô đã đạt được những thành tựu kinh tế, xã hội hết sức to lớn và trở thành một cường quốc trên thế giới. Các cơ sở dẫn đến bóc lột đã bị thủ tiêu; xã hội về cơ bản chỉ còn công nhân, nông dân và trí thức. Trình TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 17
- độ văn hóa, sự giác ngộ của người dân Liên Xô đã ở mức tiên tiến. Liên Xô có lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đứng hàng đầu thế giới. Đất nước không còn kẻ áp bức bóc lột, không còn người đói khổ. Đời sống nhân dân không ngừng tăng lên. Niềm tin của nhân dân Liên xô vào chủ nghĩa xã hội không ngừng tăng lên. Nền quốc phòng Liên Xô vững mạnh, uy tín quốc tế không ngừng tăng lên, quan hệ ngoại giao ngày càng mở rộng. Những thắng lợi đó làm cho Liên Xô trở thành một cường quốc, văn hóa, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh là trụ cột của các lực lượng cách mạng và là thành trì của hòa bình thế giới. Liên Xô giữ vai trò quyết định đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939-1945). Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, lý luận và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội được vận dụng ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới phát triển mạnh. Phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân ở các nước tư bản trở thành ba dòng thác cách mạng của thời đại, là thành trì của hòa bình thế giới, đẩy chủ nghĩa tư bản ngày càng lún sâu vào thời kỳ khủng hoảng. Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa rất quyết liệt, nhất là ở những tiêu điểm như các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, các thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở Phi châu và Mỹ La tinh Tác động mạnh mẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới góp phần vào thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh những năm 60 và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam năm 1975. Đây là bằng chứng hùng hồn sự phát triển và ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa Mác- Lênin, của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng. Từ cuối năm 1989, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần lượt sụp đổ và đến tháng 12-1991, Liên Xô sụp đổ hoàn toàn. Từ 12-1978 cho đến năm 1991, công cuộc cải cách xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc của Trung Quốc đã liên tiếp giành những thắng lợi quan trọng. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 18
- Điều phải khẳng định là: “Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” 1. Tuy nhiên, trong quá trình đó, các nước nêu trên đã mắc không ít sai lầm về quan niệm giản đơn, phiến diện về mô hình chủ nghĩa xã hội; khuynh hướng sai lầm là chủ quan, duy ý chí; tệ quan liêu và tình trạng mất dân chủ, xa rời quần chúng và những sai lầm trong duy trì quản lý kinh tế tập trung quan liêu, kế hoach hóa cao độ kéo dài. Điều cơ bản là những sai lầm đó chậm được phát hiện, chậm được sửa chữa và việc khắc phục, sửa chữa không đúng nguyên tắc đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước nói trên. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của các nước trên2: - Do sự suy thoái, biến chất của một số lãnh đạo cao cấp nhất trong Trung ương Đảng. Họ đã từng bước xa rời và phản bội những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. - Do sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc bằng “diễn biến hòa bình”. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất không gì bù đắp nổi cho phong trào cách mạng thế giới và Việt Nam. Sự đổ vỡ đó tác động to lớn, làm thay đổi trật tự thế giới. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào; hòa bình thế giới mất trụ cột; các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới mất một chỗ dựa vững chắc. Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng cơ hội đó chống phá quyết liệt hơn. Một bộ phận quần chúng nhân dân lo lắng, băn khoăn về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, từ trong sự sụp đổ đó Đảng ta rút ra nhiều bài học quý, đó chính là mâu thuẫn, là bài học của quá trình trưởng thành. Nhìn toàn diện lại lịch sử, từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từ thành tựu của công cuộc cải cách ở Trung Quốc, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được bổ sung và có những phát triển mới. 1 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Nxb. CTQG. HN. 3-2011, trg. 67-68 2 Hai nguyên nhân là viết theo giáo trình quốc gia: Những nguyên lý cơ bản của CN M-LN. TS. Bùi Thanh Quang 9-2011 19