Đề tài Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm. Ngay từ lúc mới ra đời xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, giống như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát trỉên gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người và với sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên.
doc 17 trang Khánh Bằng 30/12/2023 3080
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_quan_diem_cua_mac_anghen_ve_vat_chat.doc

Nội dung text: Đề tài Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất

  1. Tiểu luận triết học của một số nhà triết học duy tâm muốn tách rời vận động ra khỏi vật chất, thay thế khái niệm vật chất bằng khái niệm năng lượng. Dựa trên những thành tựu của khoa học thời đại mình. PhAnghen đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản. Từ đó cho đến nay khoa học hiện đại đã phát hiện ra những hình thức tổ chức vật chất mới, do đó đã phát hiện ra những hình thức mới của vận động. Chẳng hạn, khoa học đã chia hình thức vận động của vật chất thành ba nhóm tương ứng với ba lĩnh vực của thế giới vật chất là nhóm thế giới vô sinh, nhóm hữu sinh và xã hội. Đồng thời khoa học còn phát triển và bổ sung về các hình thức vận động cơ bản như vấn đề quan hệ giữa vận động cơ học và vật lý, giữa vật lý và hoá học, bản chất của vận động sinh học, mối quan hệ giữa quá trình vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội v.v Tuy nhiên cách phân loại phổ biến, chung nhất cho đến nay vẫn là chia (hình thức) vận động thành năm hình thức cơ bản sau: 1. Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian. 2. Vận đông vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện 3. Vận động hoá học: vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải các chất. 4. Vận động sinh học: Trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường. 5. Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế xã hội. Đối với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức xác định như trên, cần chú ý nguyên tắc quan hệ giữa chúng là: Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. Các hình thức vận đọng cao dựa trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó, các 11
  2. Tiểu luận triết học hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy, mọi sự quy giảm các hình thức vận động thấp đều là sai lầm. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Tuy nhiên bản thân tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng những hình thức vận động cơ bản. Ví dụ trong cơ thể sinh vật có các hình thức vận động khác nhau như vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hoá học, vận động sinh học, nhưng hình thức vận động sinh học mới là đặc trưng cơ bản của (loài người) sinh vật. Vận động xã hội là hình thức đặc trưng cho hoạt động của con người. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ph.Anghen đã đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng đối với nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra tư tưởng về sự khác nhau về chất và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào các hình thức vận động thấp và ngược lại. Ví dụ từ giữa thế kỷ XIX, những người theo chủ nghĩa Đacuyn xã hội" muốn quy vận động vật chất thành vận động sinh học, xem con người như một sinh vật thông thường giải thích hoạt động của xã hội loài người trong phạm vi tác động của quy luật sinh học là đấu tranh để sinh tồn. Họ cho rằng đấu tranh để sinh tồn dẫn đến tiêu diệt lẫn nhau trong xã hội loài người là một hiện tượng tự nhiên. Về cơ bản, chủ nghĩa "Đacuyn xã hội" là một học thuyết phản động nó đã cực đoan hoá và làm méo mó học thuyết tiến hoá của Đacuyn. Nguyên nhân chính tạo ra sai lầm này là những người theo học thuyết đó không thấy được sự khác nhau về trình độ giữa vận động sinh học và vận động xã hội, họ quy giản một cách gượng ép vận động xã hội về vận động sinh học. Khi triết học Mác Lênin khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu của nó thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng 12
  3. Tiểu luận triết học đứng im của thế giới vật chất. Trái lại triết học Mác - Lênin thừa nhận rằng, quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối, không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. "Trong vận động của các thiên thể, có vận động trong cân bằng và có vận động trong vận động. Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào ( ) cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự đứng yên tương đối của các vật thể khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất. Đặc điểm cơ bản của hiện tượng đứng im tương đối (hay trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó) là trước hết hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là trong mối quan hệ bến cảng, còn so với mặt trời và các thiên thể khác thì nó vận động theo sự vận động của quả đất. Thứ hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Ta nói con tàu đứng im là nói vận động cơ học, nhưng ngay lúc đó thì vận động vật lý, vận động hoá học cứ diễn ra trong bản thân nó. Thứ ba, đứng im chỉ biểu hiện trạng thái vận động của nó, đó là vận động trong thăng bằng trong sự ổn định tương đối biểu hiện thành một sự vật, một cây, một con trong khi nó còn là nó chưa bị phân hoá thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được di chuyển hoá tiếp theo, không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả. Do đó đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Thứ tư, là vận dộng ổn định nào đó, còn vận động nói chung tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi. Vì thế đứng im chỉ là một hiện tượng tạm thời. Ph.Anghen chỉ rõ: "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt" và "mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời". 13
  4. Tiểu luận triết học 3. Không gian và thời gian Trong triết học Mác Lênin cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian là những phạm trù đặc trưng cho phương thức tồn tại của vật chất. VI.Lênin đã nhận xét rằng: "trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài thời gian và không gian"1. Trong lịch sử triết học khái niệm thời gian và không gian là những phạm trù xuất hiện rất sớm. Ngay thời xa xưa người ta đã hiểu rằng bất kỳ khách thể vật chất nào đều chiếm một vị trí nhất định ở một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với khách thể. Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là không gian. Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biều hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện tượng ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện tượng ở sự kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động. Những thuộc tính này được đặc trưng bằng phạm trù thời gian. Tuy vậy trong lịch sử triết học xung quanh các phạm trù không gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề gây tranh cãi, trong đó điều quan tâm trước hết là không gian và thời gian có hiện thực không hay đó chỉ là những trừu tượng đơn thuần chỉ tồn tại trong ý thức của con người. Những người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian. Chẳng hạn Beccơli và Hium con thời gian và không gian chỉ là nội dung của ý thức cá nhân. Cantơ coi không gian và thời gian chỉ là hình thức của sự trực quan của con người chứ không phải là thực tại khách quan. Vào thế kỷ XVII - XVIII các nhà duy vật siêu hình tập trung phân tích các khách thể vĩ mô, vận động trong tốc độ thông thường nên đã tách rời không gian và thời gian với vật chất. Niutơn cho rằng không gian và thời gian là những thực thể đạc biệt không gắn bó gì với nhau và tồn tại độc lập bên cạnh vật chất còn tương tự như các vật tồn tại độc lập bên cạnh nhau. 1 VI.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva 14
  5. Tiểu luận triết học Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không gian và thời gian là những hình thức tồn tại khách quan của vật chất. Không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và gắn liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa là không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất. Ph.Angen viết: "các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian, tồn tại ngoài thời gian thì cũng vô lý như tồn tại ngoài không gian"1. Lênin cho rằng để chống lại mọi chủ nghĩa tín ngưỡng và chủ nghĩa duy tâm thì phải "thừa nhận một cách dứt khoát kiên quyết rằng những khái niệm đang phát triển của chúng ta về không gian và thời gian đều phản ánh thời gian và không gian thực tại khách quan, kinh nghiệm của chúng ta và nhận thức của chúng ta ngày càng thích ứng với không gian và thời gian khách quan, ngày càng phản ánh đúng đắn hơn và sâu sắc hơn"2. Quan điểm của triết học duy vật biện chứng như trên được xác nhận bởi những thành tựu khoa học tự nhiên. Chẳng hạn Lôbatxépxki trong hình học phi Ơcơlit của mình, bằng con đường hướng vào bản thân thực tại và vào bản thân của sự vật ông đã nêu lên định đề thứ 5 khác với Ơcơlit rằng: "Qua một điểm ở ngoài đường thẳng người ta có thể kẻ không phải là một mà ít nhất là hai đường thẳng song song với đường thẳng đó". Sự phát triển của hình học phi Ơcơlit đã bác bỏ tư tưởng Cantơ về không gian và thời gian coi như là những hình thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm Thuyết tương đối của Anhxtanh đã xác nhận rằng, không gian và thời gian không tự nó tồn tại, tách rời vật chất mà nằm trong mối liên hệ qua lại phổ biến không thể phân chia. Như vậy không gian và thời gian có những tính chất sau đây: 1 Các Mác và Anghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1994 2 VI.Lênin: toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 1980 15
  6. Tiểu luận triết học Tính khách quan, nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan. Tính vĩnh cửu và vô tận nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về quá khứ tương lai cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về bên phải lẫn bên trái, cả về phía trên lẫn phía dưới. Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao). Còn thời gian chỉ có một chiều từ quá khứ đến tương lai. Khái niệm không gian nhiều chiều mà ta thường thấy trong khoa học hiện nay là một trừu tượng khoa học dùng để chỉ tập hợp một số đại lượng đặc trưng cho các thuộc tính khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân theo những quy tắc biến đổi nhất định. Đó là một công cụ toán học để hỗ trợ dùng trong quá trình nghiên cứu chứ không phải để chỉ không gian thực, không gian thực chỉ có ba chiều. 16
  7. Tiểu luận triết học KẾT LUẬN Tổng kết lại ta thấy được rằng từ lúc mới xuất hiện, phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩ duy tâm. Phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với con người. Quan niệm về vật chất ở thời kỳ cận đại và cổ đại Tây âu và trong triết học Mác - Lênin là rất khác nhau. Ở thời kỳ cận đại Tây Âu đặc biệt là ở thế kỷ 17- 18 khoa học châu Âu phát triển khá mạnh. Do đó chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Theo quan niệm của Lênin thì vật chất là một phạm trù rộng lớn, do đó chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với ý thức. Đó chính là phạm trù vận động không gian và thời gian. Như vậy ta có thể thấy được rằng vật chất là một phạm trù tồn tại từ rất lâu và luôn luôn phát triển với yếu tố con người. Chính vì tính cấp thiết và sự quan trọng của nó mà em đã chọn đề tài: "Quan điểm của Mác - Ănghen về vật chất" làm đề tài bài viết tiểu luận triết học của mình. Trong quá trình làm bài viết này chắc chắn không thể tránh khỏi sai sót, rất mong được thầy góp ý và đánh giá. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô! Sinh viên Nguyễn Công Xuân 17