Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế

Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật và  là hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của quy luật chỉ  ra cho chúng ta thấy nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
doc 23 trang Khánh Bằng 30/12/2023 2600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_tai_moi_quan_he_bien_chung_giua_cac_thanh_phan_kinh_te.doc

Nội dung text: Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế

  1. thành và xây dựng chế độ kinh tế - xã hội mới. Kinh tế mà nòng cốt là các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong quá trình tổ chức xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước ta sử dụng một phần vốn tài sản thuộc sở hữu Nhà nước xây dựng khu vực doanh nghiệp nhà nước đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, Nhà nước sử dụng các doanh nghiệp Nhà nước như một "công cụ vật chất để vừa hướng dẫn, điều chỉnh những biến động tự phát triển của thị trường; vừa "mở đường" làm "đầu tàu" thu hút, lôi kéo các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng, chiến lược và kế hoạch của Nhà nước, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã nêu rõ"khu vực quốc doanh được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chỉ đạo và chức năng của công cụ điều tiết vĩ mô (1) của Nhà nước" . Như vậy bên cạnh quan hệ thống nhất có liên quan mật thiết đến nhau của các thành phần kinh tế còn tồn tại những mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế. Những mâu thuẫn này tạo động lực và tiền đề cho sự phát triển của nền kinh tế. Năm thành phần kinh tế nước ta đến nay , không chỉ có mâu thuẫn bên ngoài giữa các thành phần kinh tế mà có mâu thuẫn bên trong bản thân các thành phần kinh tế mà muốn hiểu đúng bản chất của sự vật muốn xác định được xu thế phát triển của nó phải tìm cho được mâu thuẫn bên trong của sự vật. Bên trong bản thân các thành phần kinh tế còn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích các ngành trong thành phần kinh tế đó, những ngành độc quyền như CN quốc phòng, Ngân hàng Nhà nước, Bưu chính viễn thông, không phải là không chịu sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Ngành nào c ũng muốn - kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế hiện nay thực hiện điều đó không phải là dễ dàng. Nhưng chính sự cạnh tranh đó đã tạo điều kiện cho các doanh (1) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 - NXB Sự thật Hà Nội 1991 - Trang 12 11
  2. nghiệp phát triển cao hơn với chất lượng và số lượng sản phẩm ngày càng phong phú hơn. Chuyển sang kinh tế thị trường tất yếu phải hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong thời đại ngày nay, mọi nền kinh tế dân tộc đều không hướng tới xuất khẩu, không coi mũi nhọn vươn lên ra bên ngoài thì không thể đưa nền kinh tế trong nước tăng trưởng theo kịp bước tiến hoá chung của nhân loại. Nền ngoại thương Việt Nam những năm 1981 - 1982 còn nhỏ bé và mất cân đối nghiêm trọng. Tổng kim ngạch không vượt quá 500 triệu USD và tỉ lệ xuất nhập là 1/4 (xuất 1 thì nhập 4). Những năm đầu thay đổi (1986 - 1987) kim ngạch xuất khẩu khoảng 800 triệu USD với tỷ lệ xuất nhập khẩu là 1/1,7. Năm 1986 - 1989 kim ngạch xuất khẩu đã trên 1 tỷ USD, năm 1991 gần 2 tỷ USD và năm 1992 trên 2,4 tỷ với cán cân ngoại thương thăng bằng. Đó là những bước tiến hết sức quan trọng tại những cơ sở, những tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta. Đó là do sự cạnh tranh gay gắt của các ngành trong kinh tế quốc doanh, mà ngành nào cũng cho mình là then chốt. Đấu tranh và phát triển là hai mặt của hiện tượng, là quan hệ nhân - quả của một vấn đề. Có đấu tranh mới có phát triển vì vậy như bất kỳ một giá trị nào, sự đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hoá g iữa chúng. Trong cơ chế thị trường mặc dù là sự cạnh tranh rất khốc liệt "Thương trường là chiến trường" nhưng những gì còn tồn tại được và mặt hàng nào được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là do sự nỗ lực đổi mới của bản thân ngành đó. Chính vì vậy các doanh nghiệp không thể ngồi yên thụ động mà phải đổi mới, cải tiến đáp ứng nhu cầu của thị trường, thúc đẩy tính năng động sáng tạo và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là tính ưu việt của mâu thuẫn nhưng bên cạnh đó những mâu thuẫn này cũng đã nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội. Đó là sự coi trọng lợi ích và đồng tiền, vì tiền họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điều này có sự ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung của xã hội nhất là xã hội Việt Nam ta muốn 12
  3. coi trọng những giá trị văn hoá truyền thống và đạo đức con người. Tính mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là còn ở chỗ do lợi ích lâu dài giữa các thành phần kinh tế khác nhau, mỗi thành phần kinh tế có lợi ích riêng. Quá trình phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội, quá trình phát triển sức sản xuất, cải tiến kỹ thuật, công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý kinh tế, thực hiện mạnh mẽ sự phân công lao động sẽ khắc phục tình hình mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế. 13
  4. Phần II THỰC TRẠNG - GIẢI PHÁP CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ I. THỰC TRẠNG CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI GIAN QUA: 1. Kinh tế quốc doanh: Dựa trên sở hữu toàn dân tư liệu sản xuất, theo số liệu thống kê đến cuối năm 1989 cả nước có 12.080 xí nghiệp quốc doanh với vốn tương ứng là 10 tỷ đồng USD. Trong đó công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn, xây dựng chiếm 9% tổng số vốn. Nông nghiệp chiếm 8,1% tổng số vốn lâm nghiệp 1,2% tổng số vốn. CTVT : 14,8%; Thương nghiệp 11,6%; Các ngành khác 5,93% tổng số vốn. Hàng năm thành phần kinh tế này tạo ra khoảng 35 - 40% GDP và từ 22 - 30% TNQD, đóng góp vào ngân sách từ 60 - 80% số thu của ngân sách Nhà nước. Thành phần kinh tế này nắm giữ toàn bộ công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng phần lớn phần lớn những sản phẩm chủ yếu (100%) thuốc chữa bệnh 100% hàng dệt kim 85% giấy, 75% vải mặc, 60% xà phòng và 70% xe đạp không ai có thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của kinh tế quốc doanh đối với nền kinh tế quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta và tuy đã đạt một số thành tích song khu vực kinh tế quốc doanh chưa đảm bảo được tái sản xuất giản đơn, sự tăng trưởng kinh tế thực hiện theo mô hình chiều rộng (tăng vốn, tăng lao động); sự đóng góp của khu vực này so với số chi của Nhà nước trở lại cho nó 1:3. *Hiện nay sau đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, tuy có tạo nên sự chuyển biến bước đầu, một số xí nghiệp đã vượt 14
  5. qua khó khăn tạo nên thế ổn định để đi ra và đi lên. Song những nhân tố đó chưa nhiều và những chuyển biến đó chưa có cơ sở vững chắc và lâu dài. Đến 31/12/1991 đã có 500 xí nghiệp Nhà nước phá sản và ngừng hoạt động. Việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định 388 - HĐBT chỉ mới được ở 10 Bộ, trong đó số doanh nghiệp hiện có là 1566, số đủ điều kiện tồn tại là 1.096, số phải chuyển thể là 470. Về địa phương đã tiến hành được 10 tỷ . Thành phần trong đó số doanh nghiệp hiện có 2464, số đủ điều kiện 582, số phải chuyển thể 882, việc triển khai thí điểm cổ phần hoá theo quyết định 202 - HĐBT chưa tiến hành được bao nhiêu, do nhiều nguyên nhân khác nhau làm ách tắc và chậm chạp. * Từ thực trạng nói trên. Ta có thể thấy một số đặc trưng của xí nghiệp quốc doanh hiện nay là : - Sau một số khó khăn tất yếu, đã có vài doanh nghiệp trụ lại, vươn lên góp phần đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội và dân cư, dập tắt những cơn sốt hàng hoá, góp phần bình ổn giá cả. Tuy vậy số doanh nghiệp này chưa nhiều và chưa vững chắc. - Sự tồn tại thành phần kinh tế là cần thiết nhưng còn quá nhiều với ngân sách, chất lượng và hiệu quả rất thấp. - Sự tăng trưởng và tồn tại hay hồi sinh của một số xí nghiệp về mặt thực chất vẫn còn lợi dụng kẽ hở của bao cấp Nhà nước, những sơ hở của pháp luật. - Quen sống trong cơ chế bao cấp nên thiếu độ nhạy cảm với các thông số biến động của thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã trở thành nơi để cho người lợi dụng quốc doanh để buôn lậu, tham nhũng làm thất thoát tài sản vốn liếng của Nhà nước. 15
  6. 2. Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tập thể về TLSX (trừ ruộng đất sở hữu toàn dân). Đây là thành phần kinh tế tuy trình độ xã hội hoá tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất còn thấp hơn kinh tế quốc dân nhưng sản xuất với lượng hàng hoá cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng đời sống xã hội. Trước biến động có tính bước ngoặt của nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường và sự sụp đổ của các nước Liên xô và đông âu cũ, kinh tế thị trường nước ta nhìn chung bị giảm sút và biến dạng. Trong công nghiệp số HTX 32.034 (1988) chỉ còn 9.660 (1991) m ức sản xuất năm 1991 so với năm trước giảm 47% nên giá trị sản lượng đóng cũng giảm dần từ chỗ chiếm 23,9% (năm 1988) giảm xuống còn 6,8% (năm 1991). Trong thương nghiệp và dịch vụ tính đến năm 1989 toàn ngành có 21.094 điểm bán hàng tập thể, trong đó 14.992 HTX mua bán ở phường xã. Tính đến năm 1991 hơn 75% số HTX giải thể. Số còn lại hoạt động cầm chừng. Từ chỗ toàn ngành thương nghiệp dịch vụ chiếm 15% tổng mức bán lẻ trên t hị trường trước năm 1996 đến năm 1991 chỉ còn chiếm 1,8%. Trong nông nghiệp sự xuất hiện kinh tế nông hộ với tư cách là đơn vị kinh tế cơ sở, thực hiện rộng rãi cơ chế khoán, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất, bước đầu giải phóng mức sản xuất khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân. Nhà nước tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ , bình đẳng phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể và của xã viên. Phát triển các hình thức hợp tác, đa dạng và mở rộng các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng (nông dân) ở những nơi cần thiết và có điều kiện. 3. Kinh tế tư bản Nhà nước. 16
  7. Hiện nay việc nhận thức thành phần kinh tế còn rất hạn hẹp và rất đơn giản, mặc dù nó có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế những thành phần ở nước ta. Thành phần kinh tế này rất phát triển, đa dạng. Nó bao gồm các loại hình doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp . Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến tháng 7 năm 1992 đã có 461 dự án đầu tư đã được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 3.563 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh là chủ yếu, phổ biến chiếm 342 dự án và chiếm 55% tổng số vốn đăng ký. Nếu tính theo địa phương và miền thì các tỉnh phía nam chiếm 72,5% số dự án và 73,5% tổng số vốn đăng ký cả nước. Còn số dự án đầu tư và đang có chiều hướng tăng lên, tính đến tháng 6 năm 1994 đã có 800 dự án với tổng số vốn đăng ký là 8,7 tỷ USD và dự báo đến năm 2000 có thể đạt 20 tỷ USD. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc vận động tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ khả năng quản lý của các nhà tư bản vì lợi ích của họ cũng như lợi ích của đất nước. Nhà nước cần phát triển rộng rãi các hình thức liên doanh, nhiều phương thức góp vốn thích hợp giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước, để tạo đà cho các doanh nghiệp Việt nam phát triển, bằng khả năng hợp tác và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. 4. Thành phần kinh tế tư nhân: Trên thực tế kinh tế tư nhân ở nước ta bao gồm: Các xí nghiệp tư nhân, hộ tư nhân và cá thể tuy nhiên việc phân loại này cả lý luận và thực tiễn còn đang có chỗ chưa thống nhất. Nhưng mặc dù khu vực kinh tế này mới được hồi sinh, nhưng từ năm 1989 đến nay đã phát triển nhanh và mạnh. Ví dụ: ngành công nghiệp chiếm 27,2% (1989) đến nay gần 30% trong tổng giá trị sản phẩm công nghiệp; tính đến năm 1991 trong thương nghiệp thành phần kinh tế tư nhân có 730 nghìn hộ với 950 nghìn người kinh doanh chuyên nghiệp và 1,2 triệu người buôn bán nhỏ. Số hộ 17
  8. qui mô vừa và nhỏ chiếm đại bộ phận. Tính đến giữa tháng 8 năm 1992 đã 571 hộ kinh doanh lớn được phép chuyển thành doanh nghiệp tư nhân với số vốn là 114 tỷ đồng Việt Nam ; 412 hộ chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn 268 tỷ đồng Việt nam; 29 hộ chuyển thành công ty cổ phần vơí số vốn 159 tỷ đồng Việt Nam. Trên thị trường xã hội, thành phần kinh tế này đua tranh với thương nghiệp quốc doanh và tập thể nên đã chiếm lĩnh về bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng từ 60,8% (1989) lên 73,1% (1991). Theo sự phân loại, kinh tế nông hộ cũng thuộc khu vực kinh tế này. Cho đến nay có khoảng 10.402 hộ trong đó hộ sản xuất hàng hoá có mức thu nhập từ 5 triệu đồng trở lên chiếm 22,4%; hộ tự cấp tự túc chiếm 62,8%; hộ nghèo và quá nghèo chiếm 14,8%. Khu vực kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế phát triển mạnh. Cuối năm 1988 đến nửa năm 1990 kinh tế tư bản tư nhân phát triển khá rầm rộ. Cả nước lúc đó có gần 500 xí nghiệp và công ty tư doanh. Thành phố Hồ Chí Minh có 235 doanh nghiệp tư nhân với số vốn đầu tư mỗi đơn vị từ 100 triệu đồng trở lên. Đến tháng 7 năm 1992 sau hơn 1 năm ban hành luật doanh nghiệp tư nhân cả nước có 785 xí nghiệp tư nhân với tổng số vốn đăng ký 424 tỷ đồng. Nhìn chung hiện nay khu vực kinh tế tư nhân hoạt động còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về vốn, nguyên liệu, thị trường và qui chế. Hiện nay thành phố có trên 40% doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về vốn; 8% gặp khó khăn về nguyên liệu; 7% về thị trường và 4% về qui chế. Các số liệu tương ứng ở nông thôn là 44%; 4%. 5. Kinh tế cá thể tiểu chủ: Thành phần kinh tế này có thể kinh doanh như các tác nhân kinh tế độc lập (như khái niệm "hộ gia đình" trong nền kinh tế thị trường) nhưng cũng có thể là các vệ tinh cho doanh nghiệp Nhà nước hay HTX, ở đây chúng ta thấy chính các thành phần kinh tế cũng đan xen với nhau: Về bản chất là kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhưng biểu hiện ra có thể là các cơ sở 18
  9. gia công cho doanh nghiệp hoặc các HTX. Kinh tế cá thể được khuyến khíchphát triển trong các ngành ở cả thành thị và nông thôn không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao động trực tiếp của bản thân người lao động . Kinh tế cá thể có đặc điểm kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, sản xuất nhỏ phân tán nhưng khi có chính sách kinh tế đúng kinh tế cá thể có khả năng đóng góp nhiều cho lợi ích xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm truyền thống. Tuy nhà nước cũng cần có những biện pháp quản lý thị trường chặt chẽ để hạn chế và khắc phục tính tự phát của nó. II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG: Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chiến lược kinh tế đến năm 2000, cơ cấu kinh tế trong những năm 90 phải chuyển dịch rõ ràng. Và một trong những phương hướng chuyển dịch đó là phải sắp xếp lại và đổi mới quản lý để đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, khuyến khích mọi loại hình kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị kinh tế. Để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế lao động là chủ yếu. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Đảng ta đã khảng định: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị 19
  10. trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Cần tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước khai thác mặt tích cực và khắc phục, ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ từ pháp luật của mọi doanh nghiệp, cá nhân, không phân biệt thành phần kinh tế. 20
  11. KẾT LUẬN Trên đây là những khái quát sơ bộ nhất về quan hệ năm thành phần kinh tế nước ta hiện nay. Để thực hiện mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế năm 2001: ổn định tình hình kinh tế xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc phòng và an ninh, và tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ 21, thì việc xác định đúng quan hệ và có chính sách phù hợp với năm thành phần kinh tế là một nhiệm vụ cấp bách và rất cần thiết của Đảng và Nhà nước ta trong những năm này. Với sự hiểu biết còn hạn chế và trình độ có hạn. Và đây là bài viết đầu tay. Nên trong bài viết của em còn rất nhiều thiếu sót, em rất mong được sự quan tâm c hỉ bảo của thầy cô giáo và các bạn để bài viết lần sau đạt kết quả hơn. Em xin chân thành cảm ơn. KẾT LUẬN Mâu thuẫn là một hiện tợng khách quan phổ biến hình thành từ nhữnh cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tợng trong bản thân thế giới khách quan do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức đ- ợc bản chất khuynh hớng vận động, phát triển của sự vật hiện tợng. Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu ttranh cần đợc coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển. Trong thời kỳ chuyền nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch tập chung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý 21
  12. của nhà nớc theo định hớnh Xã Hội Chủ Nghĩa. Chủ chơng lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thực hiện còn nhiều thiếu sót, mâu thuẩn giữa các vấn đề nẩy sinh, nhng những mâu thuẫn đó lại đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có nh thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó. Lời nói đầu Mâu thuẫn là hiện tợng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và t duy con ngời. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn nh cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xi nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá Mâu thuẫn tồn tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành Trong sự nghiệp đổi mới ở nớc ta do Đảng khởi xớng và lãnh đạo đã dành đợc nhiều thắng lợi bớc đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt đợc nhiều thành công to lớn nhng trong những thnàh công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải đợc giải quyết và nếu đợc giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế. Với mong muốn tìm hiểu thêm những vẫn đề của nền kinh tế, quan điểm lý luận cũng nh những vớng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển nền kinh tế tôi chọn “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài cho tiểu luận môn triết học Mác- Lê nin. Em xin chân thành cảm ơn thày ! 22
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO A/ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI B/ Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII C/ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 - NXB Sự thật Hà Nội 1991 - Trang 12 D/ Tạp chí triết học, số 1 (101), tháng 2 - 1998. Đ/ Triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia. 23