Đề tài Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay
Khi bước vào thời kỳ quá dộ lên CNXH,trong diêu kiện cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình đọ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, cơ cấu kinh tế dựa trên nông nghiệp là chủ yếu, đa số dan cư sống bằng nghề nông nghiệp, cơ cấu nghành nghề trong nông nghiệp cũng đơn giản – cơ bản là độc canh lúa nước. Nền sản xuất vật chất của xã hội dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang nặng tính tự cấp tự túc, tỷ xuất hàng hoá trong nên kinh tế tế thấp.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- de_tai_cong_nghiep_hoa_hien_dai_hoa_va_vai_tro_cua_no_trong.doc
Nội dung text: Đề tài Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay
- Từ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề cách mạng khoa học- công nghệ còn làm thay đổi cơ cấu sản phẩm trong điều kiện khoa học- kỹ thuật mới là làm giảm vật tư, giảm năng lượng, giảm không gian và giảm lao động. Nó còn làm thay đổi chế độ, cách thức sản xuất ra sản phẩm. Sản xuất tập trung, quy mô lớn, sản xuất hàng loạt và chủng loại ít được thay thế bằng sản xuất phi tập trung, quy mô nhỏ, khối lượng nhỏ, chủng loại nhiều. Cách mạng khoa học- công nghệ còn tác động đến yếu tố chủ thể của nền sản xuất xã hội là người lao đông. Người lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ mới, đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng và trí tuệ hơn. Do đó chi phí đào tạo tay nghề cho ngưòi lao động cao hơn trước. Không những thế công nghệ- kỹ thuật mới còn làm thay đổi cơ cấu lao động. Nghành thứ ba phát triển đã tạo cơ hội kiếm việc làm cho nhiều người lao động dôi ra trong các ngành khác và số lao động mới của xã hội. Ngoài ra cách mạng khoa học- công nghệ trong các nước phát triển còn làm thay đổi việc phân bố địa bàn sản xuất: Một mặt nó tạo điều kiện mở rộng phạm vi không gian, phân bố địa bàn hoạt động sản xuất; mặt khác nó hạn chế tác động của hoàn cảnh tự nhiên đối với việc bổ trí lực lượng sản xuất trong nền kinh tế. Tác động chung nhất của cách mạng khoa học- công nghệ trong các quốc gia phát triển là nó làm tăng năng suất lao động xã hội ở các nước tăng lên rất cao. Thêm nữa, cuộc cách mạng này đã tạo cho mọi quốc gia những cơ hội để phát triển. Như ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường thuộc về các nước phát triển. Vì thế các nước chậm phát triển đang đứng trước những thách thức to lớn. Khoảng cách chênh lệch giàu- nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng, cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng gay gắt. Về quan hệ kinh tế quốc tế trong những năm gần đây kinh tế hàng hoá đã phát triển vượt khỏi phạm vi quốc gia và mở rộng ra phạm vi quốc tế. Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đến trình độ cao- kinh tế thị trường đã làm cho thị trường thế giới phát triển cả về chiều rộng lẫn chiếu sâu. Từ đó, thị trường thế giới và kinh tế hàng hoá đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động quốc tế và 11
- sự hợp tác quốc tế cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia cũng tăng lên.Mức độ và phạm vi của quan hệ kinh tế quốc tế đã phát triển chưa từng thấy trong những năm gần đây. Việc tham gia và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế có tác động nhiều mặt đến quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hoá nói riêng của các quốc gia. Sự tác động đó bao gồm cả tác động tích cực lấn tiêu cực, song tác động tích cực là chủ yếu. Quan hệ kinh tế quốc tế tạo khả năng to lớn để nước ta có thể tiếp cận những thành tựu vĩ đại của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, thu hút thêm các nguồn vốn bên ngoài, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lí của các nước đi trước trên con đường công nghiệp hoá đất nước. Nó cũng giúp chung ta tiếp nhận sự giúp đỡ của bạn bè năm châu, giải quyết những khó khăn mà khả năng đất nước bị hạn chế, sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực bên trong vốn có của đất nước mình. Về yếu tố bên trong: Nếu như các yếu tố bên ngoài là cách mạng khoa học- kỹ thuật và quan hệ kinh tế quốc tế tác động mạnh hơn đến yếu tố kỹ thuật, công nghệ trong quá trình CNH- HĐH đất nước thì yếu tố bên trong đặc biệt là các tiềm năng kinh tế- các lợi thế so sánh của Việt Nam lại có tác động nhiều hơn đến cơ cấu ngành nghề trong quá trình CNH- HĐH ở nước này Dù kỹ thuật hiện đại hay thô sơ thì Việt Nam vẫn phải phát triển kinh tế và thực hiện CNH- HĐH đất nước trên cơ sở những tiềm năng kinh tế của mình. Song các yếu tố bên ngoài sẽ có tác động rất tích cực đến việc sử dụng các tiềm năng, các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả và nhanh chóng rút ngắn về trình độ phát triển với các nước khác trên thế giới. + Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở phía đông bàn đảo Đông Dương và là quốc gia ven biển. Như vậy, Việt Nam ở gần các tuyến đường biển quan trọng và là nơi có các tuyến đường hàng không đi qua hoặc kề cận lãnh thổ. Đây là một ưu thế của Việt Nam so với một số nước khác như Lào, Campuchia 12
- Đường biển dài đã tạo cơ hội cho ngành giao thông vận tải của Việt Nam phát triển. Bên cạnh nó các hoạt động kinh tế khai thác các tiềm năng của biển như: đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản, khai thác tài nguyên thiên nhiên vùng thềm lục địa, du lịch biển có điều kiện phát triển. + Về tài nguyên thiên nhiên, đất đai là một loại tài nguyên quan trọng ở Việt Nam. Số lượng 7 ha đất trồng trọt cùng với khí hậu nhiệt đới, gió mùa, độ ẩm cao tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nông, lâm nghiệp phát triển. Tuy vậy, khí hậu của Việt Nam cũng có mặt khắc nghiệt, gây ra biến cố như bão, lũ lụt, hạn hán làm ảnh hưởng sâu sắc lên mọi hoạt động kinh tế. Riêng về khoáng sản, tài nguyên khoáng sản của Việt Nam không giàu nhưng phong phú. ở Việt Nam hiện đã phát hiện khoảng 100 loại quặng kim loại và phi kim loại. Tiềm năng này cho phép phát triển các cơ sở khai khoáng, chế biến và tinh chế rất lớn. Tuy vậy, cùng với tình trạng chưa phát triển của cơ sở hạ tầng, nhiều mỏ khoáng sản lại nằm ở các vùng heo hút, hiểm trở của đất nước. Điều đó cũng gây không ít khó khăn cho việc khai thác và vận chuyển trong quá trình sản xuất- kinh doanh. + Về nguồn nhân lực, Việt Nam là nước đông dân, bước vào thế kỷ XXI dân số Việt Nam có trên 80 triệu người(đông dân thứ 2 ở các nước Đông Nam á và thứ 13 trong số 216 quốc gia trên thế giới). Như vậy, Việt Nam có khoảng 40 triệu lao động tỷ lệ lao động trẻ cao, và chủ yếu tập trung ở các thành phố. Cho đến cuối thập kỷ 90, lao động trình độ thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao( khoảng trên 80%) . Tình hình nguồn nhân lực nói trên có thuận lợi cho phát triển nhiều ngành kinh tế mới. Đặc biệt lao động trẻ có khả năng tiếp thu công nghệ mới nhanh. Tuy vậy, chính dân số đông cũng gây khó khăn cho vấn đề cải thiện mức sống, đặc biệt yêu cầu mở rộng thị trường lao động để giải quyết vấn đề việc làm trong khi tiềm năng về vốn của đất nước rất hạn chế. Các tiềm năng kinh tế nói trên có ảnh hưởng rất sâu sắc đến việc lựa chọn cơ cấu các ngành công nghiệp ở Việt Nam trong các giai đoạn phát triển. Đặc 13
- biệt việc lựa chọn cơ cấu ngành nghề trong thời kỳ đầu của quá trình CNH- HĐH. 2. Nội dung cơ bản của CNH- HĐH trong thời kỳ quá độ ở nước ta Với trình độ kinh tế- xã hội ở điểm xuất phát của quá trình xây dựng xã hội mới cũng như tại thời điểm hiện nay còn thấp kém, với điều kiện bên trong, bên ngoài có nhiều phức tạp, khó khăn, qua tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước sự nghiệp CNH- HDDH đất nước ở Việt Nam phải tiến hành trong một quá trình lâu dài. Quá trình đó gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều phải giải quyết các vấn đề liên quan đến 2 nội dung cơ bản, đó là kỹ thuật (công nghệ) và cơ cấu ngành nghề. Song ở giai đoạn đầu, do điều kiện thiếu vốn nghiêm trọng và do sức ép của vấn đề bức xúc là giải quyết việc làm nên nội dung công nghiệp hoá tập trung vào phát triển những ngành nghề thu hút nhiều lao dộng để tạo ra tổng sản phẩm xã hội và giá trị hàng hoá cao hơn. ở các giai đoạn sau, xét riêng về mặt kỹ thuật- công nghệ thì càng rút ngắn thời gian để tiếp thu những thành tựu khoa học- công nghệ mới nhất của nhân loại, càng tiến gần tới đích thành công của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước Quá trình CNH- HĐH trong thời kỳ quá độ ở nước ta phải giải quyết hai nội dung sau: Một là: Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật mới. Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, kỹ thuật thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, do đó về mặt kỹ thuật- công nghệ phải tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật. Thực chất của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta có nội dung bao hàm của cả ba cuộc cách mạng kỹ thuật mà thế giới đã trải qua. Cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta là một quá trình không thể thực hiện trong một thời gian ngắn, hay kết thúc ở ngay chặng đường đầu tiên. Bởi quá trình đó sẽ thực hiện đổi mới về kỹ thuật- công nghệ. Do những điều kiện đặc thù của Việt Nam, nên sự đổi mới về kỹ thuật- công nghệ sẽ mang các tính chất sau: một mặt, sự đổi mới về kỹ thuật công nghệ sẽ được tiến hành tuần tự từ 14
- trình độ kỹ thuật thủ công qua các trình độ cao hơn( như kỹ thuật cơ khí) và tiến tới áp dụng công nghệ hiện đại nhất; mặt khác, sự đổi mới tiến hành có tính nhảy vọt, cách quãng trong những trường hợp nhất định đối với từng bộ phận của nền kinh tế. Tức là, trong một số cơ sở và một số lĩnh vực nếu có đủ điều kiện, có thể áp dụng ngay kỹ thuật tiên tiến nhất, hiện đại nhất, bỏ qua các trình độ kỹ thuật trung gian. Hai là: xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí: Cơ cấu kinh tế- kỹ thuật là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng kinh tế. Tính chất hợp lí của một cơ cấu kinh tế- kỹ thuật phải bao gồm những vấn đề cơ bản sau: - Phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan,trước hết là quy luật kinh tế. - Phù hợp với xu hướng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. - Cho phép khai thác tốt các tiềm năng của đất nước, tiềm năng của ngành, của doanh nghiệp ở cả chiều rộng lẫn chièu sâu. - Cơ cấu ngành nghề trong quá trình hoạt động phải bổ sung cho nhau, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. - Cho phép khai thác các tiềm năng của đất nước trong tương quan giữa yêu cầu phát triển kinh tế hiện tại với yêu cầu phát triển kinh tế trong tương lai( cơ cấu kinh tế của các giai đoạn cũng bổ sung cho nhau- cơ cấu kinh tế của giai đoạn trước phải tạo đà cho cơ cấu kinh tế ở giai đoạn sau) - Cơ cấu kinh tế- kỹ thuật xây dựng trên cơ sở kinh tế hàng hoá và sự quốc tế hoá đới sống kinh tế, đó là cơ cấu kinh tế”mở”. 2. Nội dung CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 a. Một số kết quả thực hiện CNH- HĐH đất nước giai đoạn 1991- 2000 Để đánh giá được một cách tương đối sác thực cả về thành tựu cũng như những khiếm khuyết của công cuộc CNH- HĐH đất nước trong thập kỷ 90, trước hết cần đề cập những nội dung chủ yếu của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở giai đoạn này. 15
- Trước hết về kỹ thuật- công nghệ: trong điều kiện năng lực tích lũy vốn của nền kinh tế thấp, trình độ quản lý, trình độ của người lao động còn hạn chế, vấn đề việc làm vẫn mang tính bức súc. Việc đổi mới kỹ thuật- công nghệ được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn- tiên tiến, lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện. Về cơ cấu ngành nghề: - Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và các ngành kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nông nghiệp - Tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, mở rộng kinh tế dịch vụ thành ngành kinh tế quan trọng theo hướng khai thác triệt để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng suất khẩu. - Phát triển công nghiệp khai thác, trong đó đẩy mạnh việc thăm dò khai thác dầu khí và một số loại khoáng sản. - Phát triển có lựa chọn một số ngánh sản xuất tư liệu sản xuất: hóa chất, phân bón, vật liệu xây dựng và một số bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng của nển kinh tế (sân bay, bến cảng, kho tàng ). - Phat huy năng lực khoa học trong nước và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để phát triển ngành công nghiệp điện tử và tin học - Xây dựng và phát triển các vùng kinh tế điển hình, từ đó hình thành các vùng kinh tế chuyên môn hoá. Với những nội dung cụ thể đặt ra như trên, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 1991- 2000 đã đạt được những thành tựu lớn như sau: Thành tựu nổi bật nhất đó là công nghiệp Việt Nam đã đạt được bước phát triển vượt trội so với các giai đoạn trước. Từ năm 1991 đến 1998, mức tăng trung bình hàng năm là 13%, riêng giai đoạn 1991- 1995 là 13,7%. Trong khi đó giai đoạn 1976- 1980, mức tăng trung bình hàng năm của công nghiệp Việt Nam là 0.6%, giai đoạn 1986- 1990 là 6.1%. Nếu tính riêng, một số ngành có 16
- mức tăng trung bình hàng năm trong giai đoạn 1990- 1998 rất cao. Ví dụ, thép cuộn: 30.5%, ắc quy và pin: 30%, dầu thô:21.1%. Sự phát triển của khu vực công nghiệp đã làm tăng tỷ phấn công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Năm 1990, công nghiệp chiếm 18.8% GDP, năm 2000, tỷ lệ trên là 34%. Ngoài ra, công nghiệp phát triển đã có tác động rất lớn đến sự phát triển các ngành khác. Về cơ cấu ngành có sự thay đổi đáng kể, một số cơ sở thuộc các ngành công nghệ cao đã hình thành trong nền kinh tế, các ngành kinh tế chủ chốt như khai thác dầu mỏ, thép, dệt may, giày dép phát triển mạnh,khu vực dich vụ nhờ sự phát triển của công nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất được xây dựng. Những sự phát triển nói trên đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế, trình độ kỹ thuật của nền kinh tế đã có nhiều tiến bộ. Nền công nghiệp Việt Nam đã bước đầu phát triển theo hướng hội nhập quốc tế, năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Điều đó thể hiện công nghiệp Việt Nam đã dần chiếm lại thị phần trong nước và mở rộng xuất khẩu ra nước ngoài. Giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng công nghiệp giai đoạn 1991- 1998 tăng rất nhanh. Ví dụ, hàng điện tử tăng 480 lần, than đá tăng 100 lần, giày dép tăng 91.4 lần, hàng dệt may tăng 8.5 lần, dầu thô tăng 2.15 lần. Những số liệu và tình hình nêu trên cho thấy kết quả thực hiện nội dung CNH- HĐH đất nước trong thập kỷ 90 là cao. Những thành tựu đó có dược do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân quyết định hàng đầu là do tác động của cơ chế quản lý mới (tuy chưa hoàn thiện) và những nỗ lực thu hút và tập trung vốn để phát triển công nghiệp. Tổng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp giai đoạn 1991- 1998 khoảng 52000 tỉ VNĐ, chiếm 45% tổng vốn đầu tư trong nước. Trong giai đoạn 1990- 1991 là 78%. Các khoản vay ưu đãi của chính phủ cũng giành cho phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm. Tới tháng 10 năm 1998, có 11.3 tỷ UUSSDD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào công nghiệp. 17
- Bên cạnh những thành tựu, công nghiệp Việt Nam vẫn còn những điểm yếu, có thể kể như: - Trình độ kỹ thuật- công nghệ của nhiều cơ sở công nghiệp Việt Nam vẫn ở trình độ thấp. Đánh giá chung, trình độ kỹ thuật- công nghệ Việt Nam chậm hơn các nước công nghiệp từ 2 đến 3 thế hệ. Công nghệ cấp thấp, lỗi thời chiếm 60 đến 70%, trong khi công nghệ hiện đại chỉ chiếm 30 đến 40%. Do vậy mức tiêu hao năng lượng trên đơn vị sản phẩm lớn (gấp 1.2 đến 1.5 lần so với các nước khác trong khu vực), sản phẩm chất lượng kém, chủng loại đơn điệu và năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế. - Thiếu vốn, thiếu đầu vào trung gian. Do thiếu đầu vào, để hoạt động các cơ sở công nghiệp phải nhập khẩu sản phẩm sơ chế hoặc bán thành phẩm, nhưng việc nhập khẩu lại có khó khăn về tài chính. Trong khi đó nhiều nguồn trong nước vẫn chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. - Hạn chế về năng lực chuyên môn và quản lý trong nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp hoá đất nước theo hướng hội nhập và hiện đại hoá nền kinh tế quốc gia. - Những bất cập về thể chế, chính sách quản lý của nhà nước. - Năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam thấp và sự hạn chế về thị trường tiêu thụ. Những vấn đề nêu trên đang cần tìm lời giải ở sự nghiệp CNH- HĐH trong thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới của nước ta a. Nội dung CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mười năm, đó là:” Đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt chất lượng đới sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân.Tạo nền tảng của đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường vững chắc. Thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã 18
- hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao” Từ những thành tựu và tồn đọng của giai đoạn trước, để thực hiện những mục tiêu nói trên, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 có những nội dung như sau: Về kỹ thuật- công nghệ: tiếp tục thực hiện phương châm kết hợp công nghệ nhiểu trình độ. Song hiện nay trình độ kỹ thuật- công nghệ trong nền kinh tế đã được nâng cao hơn một bước so với trước nên việc giải quyết vấn đề kỹ thuật- công nghệ giai đoạn hiện nay là nhằm tập trung cơ hội để đạt được trình độ công nghệ hiện đại. Trên cơ sở đó báo cáo chính trị của Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định: “ Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa áp dụng công nghệ tiến bộ, đi nhanh về một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao” Về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng: tiếp tục khai thác những mặt tích cực của cơ cấu kinh tế- kỹ thuật giai đoạn 1991- 2000. Cơ cấu kinh tế kinh tế- ký thuật của Việt Nam trong giai đoạn mới được định hướng thay đổi theo hướng phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tỷ trọng khu vực dịch vụ và công nghiệp tăng lên, tỷ trọng khu vực nông nghiệp sẽ giăm xuống. Để trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020, dự kiến vào năm 2010, công nghiệp Việt Nam sẽ chiếm 37- 38% GDP và 40- 41% vào năm 2020. Đặc biệt cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Về chi tiết có những điểm đáng chú ý như sau: - Phát triển mạnh công nghiệp chế biến (nông sản, thuỷ sản), các ngành may mặc, da giày. 19
- - Tập trung phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao: công nghệ thông tin, phần mềm. - Xây dựng có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng then chốt như: năng lương, hoá chất, luyện kim, cơ khí. - Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, hàng không, bưu chính- viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng Đặc biệt sớm phổ cập sử dụng tin học và internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội. - Tiếp tục xây dựng và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông, thông tin, thuỷ lợi, hệ thống cấp thoát nước ) - Phát huy vai trò động lực của các vùng kinh tế trọng diểm,tạo diều kiện cho các vùng khác phát triển,tăng cường mối liên kết giữa các vùng nhằm giải quyết tình trạng kém phát triển ở một số vùng và cả nền kinh tế. III. Những vấn đề cần giải quyết để tiếp tục thực hiện chiến lược CNh- HĐH ở Việt Nam Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước để đi đến thành công phụ thuộc vào nhiều vấn đề. 1. Tạo nguồn vốn tích lũy cho CNH- HĐH Quá trình CNH- HĐH, quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật việc phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải cò nhiều vốn. Vốn và sử dụng vốn là vấn đề đặc biệt quan trọng. Không có vốn mà nói đến CNH- HĐH thì chỉ là ảo tưởng. Vấn đề này xuất phát từ việc CNH- HĐH kéo theo sự thay đổi lớn vế số lượng và chất lượng, về cơ cấu ngành sản xuất, nhiều ngành mới xuất hiện nên đòi hỏi phải có vốn đầu tư mới có thể đáp ứng yêu cầu đó. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì yêu cầu tích luỹ và đầu tư để công nghiệp hoá phải đạt 20% GNP. Trong khi đó nền kinh tế nước ta đã cho thấy GNP bình quân theo đầu người hiện nay vẫn ở trong nhóm thấp nhất thế giới ( khoảng 200USD/người) và mức tích luỹ mới đạt 8% GNP. Còn đầu tư so với GNP chỉ hơn 10%. 20
- Do đó huy động vốn cho CNH- HĐH là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời gian tới. Việc tạo nguồn vốn ở nước ta hiện nay có thể dựa vào hai nguồn vốn, đó là: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng đã đặt ra vấn đề:” Nguồn vốn trong nước lâ quyết định, vốn từ nước ngoài là quan trọng”. Với nguồn vốn trong nước thì tính quyết định của nó đã được khẳng định bằng kinh nghiệm của rất nhiều nước trên thế giới. Một số nước Châu á cho thấy thời gian đầu của công nghiệp hoá họ phải huy động ở trong nước khoảng 50% đến 80% số vốn cần thiết và phải duy trì trong nhiều năm mức đầu tư trên 30%GDP mới trở thành những” Con Rồng” như hiện nay. Đối với nước ta, huy động nguồn vốn tích luỹ trong nước cấn phải thực hiện mạnh mẽ các biện pháp sau: - Khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của đất nước( lao động, tài nguyên ); phát triển các ngành nghề, sử dụng tối đa công suất của máy móc, thiết bị hiện có, tạo thêm việc làm cho người lao động để tăng sản phẩm cho đất nước trong đó có sản phẩm thặng dư- tiền đề của tích luỹ. - Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế phải được coi là đường lối chiến lược, nhất quán được thể chế hoá bằng pháp luật để mọi cá nhân, mọi tổ chức có vốn yên tâm mạnh dạn bỏ vốn đầu tư cho sản xuất- kinh doanh. - Huy động nguồn vốn trong nhân dân: qua kết quả điều tra xã hội học vào năm 1994 nguồn vốn trong dân ước tính gần 20 triệu cây vàng và 2 nghìn tỷ đồng tiền mặt. Để thu hut nguồn tiền nhàn rỗi này phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, cần mạnh dạn sử dụng các công cụ như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, các hình thức tiền gửi và cho vay với các mức lãi suất phù hợp. - Thực hiện tốt chính sách tiết kiệm. Khái niệm tiết kiệm cần được hiểu là tiết kiệm cả trong sản xuất và tiết kiệm trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, có thể thực hiện tiết kiệm bằng việc khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu; hạn chế những lãng phí từ khâu lập dự án, thiết kế, thi công cũng như trong 21