Đề cương và đáp án tham khảo môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

1.Vì sao nói sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu lịch sử?
2.Phân tích nội dung cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin của tư tưởng HCM.Dựa trên cơ sở nào để khẳng định đến 1930, tư tưởng HCM đã được hình thành về cơ bản? 


doc 39 trang Khánh Bằng 29/12/2023 540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương và đáp án tham khảo môn Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docde_cuong_va_dap_an_tham_khao_mon_tu_tuong_ho_chi_minh.doc

Nội dung text: Đề cương và đáp án tham khảo môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. công cụ để đập tan chính quyền của bọn phát xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, đập tan mọi âm mưu chính trị và quân sự của chúng.Tuy nhiên, đấu tranh vũ trang ko tách biệt với đấu tranh chính trị.Theo Người, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. b) Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hoà bình - Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ mọi khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc. + Việc tiến hành các hội nghị Việt - Pháp và ký các Hiệp định trong năm 1946, việc kiên trì yêu cầu đối phương thi hành Hiệp định Giơnevơ thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo và hoà bình của Hồ Chí Minh. + Người viết: “Tôi không muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi muốn khi trở về nước sẽ đem cho Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác chắc chắn mà chúng tôi mong đợi ở nước Pháp”. - Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946 của Người có đoạn: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. - Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách vãn hồi hoà bình. Trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ, Người đã nhiều lần gửi thư cho Chính phủ và nhân dân hai nước này đề nghị đàm phán hoà bình để kết thúc chiến tranh. Điều này thể hiện trong chiến lược ngoại giao “vừa đánh vừa đàm” của Người.
  2. c) Hình thái bạo lực cách mạng - Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, Hồ Chí Minh chủ trương khởi nghĩa toàn dân và phát động cuộc chiến tranh nhân dân. Người nói: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể nào thắng lợi được”. Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng. - Phương châm chiến lược là toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến Trong chiến tranh, “quân sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm clo thắng lợi quân sự to lớn hơn”. Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược nhằm thêm bạn bớt thù, phân hoá, cô lập kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế. “vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”. Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. “Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém phần quan trọng”. Về kháng chiến trường kỳ, trong thời kỳ chống Pháp Người nói: “Địch muốn tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước Người ra Lời kêu gọi (17/7/1967): “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá, nhưng chúng ta nhất định phải đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. - Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh của nhân dân. Trong Đường Kách mệnh Người chỉ rõ: muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp lấy mình đã. Tháng 8 năm 1945 khi thời cơ xuất hiện, Người kêu gọi toàn quốc, đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà giải
  3. phóng cho ta. - Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế cũng là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi. 6.Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Con đường quá độ lên CNXH ở VN Quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin về thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kì quá độ: - Trong “Phê phán Cương lĩnh Gotha”, Mác viết: giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ chuyển biến từ chế độ nọ sang chế độ kia. Và thích ứng với thời kỳ đó là một thời kỳ quá độ về chính trị, trong đó chức năng của nhà nước đóng vai trò quan trọng. - Nếu Mác mới chỉ ra con đường quá độ trực tiếp từ nước tư bản phát triển ở trình độ cao lên CNXH với tính chất là sự chuyển biến cách mạng gay go và quyết liệt, thì Lênin đã chỉ ra con đường thứ hai – quá độ gián tiếp lên CNXH với hai hình thức: 1. Từ nước tư bản phát triển trung bình đi lên CNXH. 2. Từ nước tiền tư bản hoặc kém phát triển đi lên CNXH. Tính chất của nó, theo Lênin dù ở hình thức nào cũng đều là “cơn đau đẻ kéo dài”. Quan niệm của Hồ Chí Minh: Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kì quá độ lên CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin
  4. và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế VN, HCM đã khẳng định Con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dân lên CNXH.Như vậy, quan niệm của HCM về thời kì quá độ lên CNXH ở VN là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể-quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên CNXH. Chính ở nội dung cụ thể này, HCM đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác-Lênin về thời kì quá độ lên CNXH. Về thời kỳ quá độ lên CNXH, Người chỉ rõ: Việt Nam quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến lên CNXH không kinh qua phát triển TBCN. Tính chất của nó là cuộc đấu tranh một mất, một còn giữa CNXH và CNTB. Đặc điểm này sẽ chi phối, quy định nội dung con đường, hình thức, bước đi và cách làm của CNXH ở Việt Nam. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam - Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là cải biến nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến hiện đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa. - Theo HCM, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên CNXH ở VN là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ lên CNXH ở VN bao gồm 2 nội dung lớn: + “Phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH”, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. + Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu, chủ chốt, lâu dài. - Về tính chất tuần tự, dần dần của thời kì quá độ lên CNXH được Người lý giải: + Thứ 1, đây là cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.Như trong di chúc, HCM đã coi sự nghiệp xây dựng CNXH là một cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn
  5. Đảng, toàn dân VN. +Thứ 2 trong sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng, Nhà nước và ND ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời. + Thứ 3, luôn bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá. Phải thận trọng, không được nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn, đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học và phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát với tình hình thực tế. “Ta xây dựng CNXH từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”; “Phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại. Người chỉ đạo bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài tuỳ theo hoàn cảnh”, “chớ ham làm mau, ham rầm rộ, Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”, đi bước trước phải tính tới bước sau, đi bước sau phải hoàn thiện bước trước. Không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Thời kỳ đầu, Hồ Chí Minh cũng nói đến độ dài của thời kỳ quá độ là phải trải qua vài ba kế hoạch dài hạn, nhưng về sau Người chỉ bàn về chia nhỏ thời kỳ quá độ thành nhiều bước đi, mỗi bước đi phải đặt ra những trọng tâm trọng điểm để tập trung hoàn thành và phụ thuộc bởi thành tựu CNH, HĐH của mỗi bước đi. Công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một sự nghiệp cách mạng mang tính toàn diện. HCM đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực. - Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải phát huy và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước và thời kì quá độ lên CNXH, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng ko trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất lòng tin ở dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máy thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở trên nhiều lĩnh vực. - Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.
  6. - Trong lĩnh vực kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập đến các mặt: LLSX, QHSX, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông-công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thõa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, HCM lưu ý phải phát triển đồng đều giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa đảm bảo an ninh, quốc phòng cho đất nước. Người rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động:làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, ko làm ko hưởng. Hồ Chí Minh không chỉ là người đầu tiên chủ trương kinh tế nhiều thành phần suốt thời kỳ quá độ, mà còn là người đầu tiên đề cập đến chế độ khoán trong sản xuất - Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội. Biện pháp HCM đã đề ra 2 nguyên tắc có tính chất phương pháp luận: -Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không sao chép, máy móc, giáo điều. Người cho rằng, Việt Nam có thể làm khác với Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác “Muốn đỡ bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm thì phải học kinh nghiệm của các nước anh em” nhưng “áp dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo”, “ta không thể giống Liên Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử
  7. khác ”. -Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên, Người lưu ý vừa chống xa rời nguyên lý của CNMLN, quá tuyệt đối hóa cái riêng, đồng thời phải chống chủ nghĩa máy móc, giáo điều khi áp dụng các nguyên lý của CNMLN vào Việt Nam. Quán triệt 2 nguyên tắc phương pháp luận trên, HCM xác định phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng CNXH: dần dần, thận trọng, từng bước một, từ thấp đến cao, ko chủ quan nôn nóng và việc xác định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào các điều kiện khách quan quy định.HCM nhận thức về phương châm “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH” không có nghĩa là làm bừa., làm ẩu, đốt cháy giai đoạn, mà phải vững chắc từng bước phù hợp với điều kiện thực tế. - Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của CNH, HĐH XHCN, coi đó là con đường phải đi của chúng ta, là nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ lên CNXH.Theo Người, CNH XHCN chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội. - Xây dựng chủ nghĩa xã hội là “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm”. Như vậy, chủ nghĩa xã hội không đồng nhất với bình quân, mà từng bước tiến lên cuộc sống sung túc, dồi dào. - Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể sau: + Kết hợp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựng là chủ chốt và lâu dài. + Kết hợp xây dựng với bảo vệ, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau trong phạm vi một quốc gia. + Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp và quyết tâm để thực hiện thắng lợi kế hoạch, muốn kế hoạch thực hiện được tốt thì "chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi." + CNXH là do nhân dân tự xây dựng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì vậy phải “đem tài dân, sức dân, của dân
  8. để làm lợi cho dân”, Chính phủ chỉ giúp đỡ kế hoạch chứ không thể làm thay dân. Phải phát huy hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho dân. 7.Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về "Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền"? * Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành đảng cầm quyền - Hồ Chí Minh đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. - Để thực hiện lý tưởng cao cả đó, Người tích cực chuẩn bị cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức và sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam: + Công-nông là gốc của cách mạng, nhưng “trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Dân phải được tổ chức, “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi”. + Để Đảng thống nhất về tư tưởng và hành động, Người chọn chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt của Đảng. + Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. - Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng không bao giờ hy sinh lợi ích của công-nông cho bất kỳ giai cấp nào khác. Đảng tận tâm, tận lực, phụng sự, trung thành với lợi ích của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được sự tổ chức, rèn luyện, giáo dục của Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, đã lãnh đạo toàn dân tộc chiến đấu oanh liệt, giành được chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó cũng là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền. * Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp đó.
  9. Cụm từ “Đảng cầm quyền” được Hồ Chí Minh sử dụng trong bản Di chúc của Người. Theo Người, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. - Khi chưa có chính quyền: Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến để thiết lập chính quyền nhân dân. Thời kỳ này, phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng, đưa quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền. - Khi có chính quyền, một vấn đề mới cực kì to lớn, cũng là thử thách hết sức nặng nề của Đảng là người đảng viên cộng sản ko được lãng quên nhiệm vụ, mục đích của mình, là phải toàn tâm , toàn ý phục vụ nhân dân, trên thực tế đã có một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất trở thành “quan cách mạng”.Với chủ tịch HCM “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” là bản chất của CNXH. Đó là điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “Đảng cầm quyền”. + Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ Quốc, của nhân dân: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là mục tiêu, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. “Người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ Quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”. + Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Quan điểm này của HCM về Đảng cầm quyền là sự vận dụng, phát triển hết sức sáng tạo lý luận Mác-Lênin về đảng vô sản kiểu mới. “Đảng lãnh đạo”: tức là Đảng là tổ chức lãnh đạo duy nhất đối với toàn bộ xã hội. Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể nhân dân Việt Nam nhằm đưa lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Muốn vậy Đảng
  10. phải có tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ quần chúng, “phải đi theo đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân”. Đồng thời, Đảng phải tập hợp, đoàn kết nhân dân thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động. Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng, lãnh đạo nhưng phải chống bao biện, làm thay, phải thông qua chính quyền nhà nước “của dân, do dân, vì dân” để Đảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội.Do đó, Đảng phải lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện, luôn luôn đảm bảo cho Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh,thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. “Đảng là đầy tớ thật trung thành của nhân dân” “Đầy tớ” không có nghĩa là tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng mà là “tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân”. “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”.Mỗi cán bộ, đảng viên đều là “công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Là đầy tớ của nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ; phải tích cực tuyên truyền vận động quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Như vậy, “lãnh đạo” và “đầy tớ” là hai khái niệm được Hồ Chí Minh sử dụng trong mối quan hệ biện chứng với nhau vì cùng chung một mục đích là: vì dân. Làm tốt cả hai vai trò này là cơ sở đảm bảo uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng. + Đảng cầm quyền, dân là chủ. Vấn đề cơ bản nhất của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Theo Các Mác, đó mới là cánh cửa vào xã hội mới chứ chưa phải là xã hội mới.Vì vậy, vấn đề quan trọng là chính quyền thuộc về tay ai.