Đại cương Lịch sử triết học - Hoàng Ngọc Vĩnh
Sự phát triển của triết học La-mã và Hy-lạp cổ đại được chia thành ba thời kỳ:
- Thời kỳ tiền Socrate: Trước thế kỷ IV tcn với các trường phái triết học tiêu biểu là Milê, Pitago, Hêraclit, Êlê... Thời kỳ này các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học tự nhiên. Vấn đề được các nhà triết học quan tâm hàng đầu là vấn đề bản thể luận.
- Thời kỳ tiền Socrate: Trước thế kỷ IV tcn với các trường phái triết học tiêu biểu là Milê, Pitago, Hêraclit, Êlê... Thời kỳ này các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học tự nhiên. Vấn đề được các nhà triết học quan tâm hàng đầu là vấn đề bản thể luận.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đại cương Lịch sử triết học - Hoàng Ngọc Vĩnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- dai_cuong_lich_su_triet_hoc_hoang_ngoc_vinh.doc
Nội dung text: Đại cương Lịch sử triết học - Hoàng Ngọc Vĩnh
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 10 Về tri thức: Người Ấn Độ cổ đại đã đạt tới một nền tri thức rất phong phú, đôi khi rất sâu sắc và trong một số trường hợp có thể nói là vượt thời đại. Thiên văn, lịch pháp và toán học khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại còn có những đóng góp về các hiểu biết về cấu tạo của vật chất (vật lý) và cấu tạo cơ thể con người. Trên cơ sở hiện thực của đời sống kinh tế - xã hội và tri thức ấy, người Ấn Độ cổ đại đã sáng tạo ra một nền triết học lớn, xứng đáng là một trong ba trung tâm triết học của thời đại trong lịch sử nhân loại. 2. Đặc điểm và cơ sở phân chia các hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại. Từ đầu thiên niên kỷ I tcn, người Ấn Độ cổ đại đã có từ Darasna (hệ thống quan điểm) dùng để chỉ triết học. Các biểu tượng tôn giáo và tư tưởng tôn giáo hình thành và phát triển rất sớm, đồng thời rất được đề cao trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Các học phái triết học được hình thành sớm và bị ảnh hưởng của tôn giáo, và diễn ra không êm ả, phẳng lặng mà cũng có lúc cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra khá gay gắt. Sự hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại hầu hết đều dựa trên các tập văn “Veda”. Veda xét theo gốc Sanskrít nó xuất phát từ định ngữ “Vid” có nghĩa là hiểu biết, là tri thức. Veda là tác phẩm văn hóa cổ đồ sộ nhất của Ấn Độ đã được hình thành trên dưới hai ngàn năm. Tiền Veda có bốn tập là: - Rig-veda gồm trên một ngàn khúc tán ca. - Sama-veda là những khúc hát được rút ra từ Rig-veda. - Avthav-veda là những câu thần chú đọc trong các nghi lễ. - Yasur- veda là những công thức tổ chức trong các nghi lễ. Các tập này chưa xuất hiện tư duy triết học. Ba tập hậu veda xếp theo trình tự thời gian là: Kinh Brahamanna; Kinh Arany- aka; Upanishadd. Hai tập đầu chưa xuất hiện tư duy triết học, chỉ ở Upanishadd (theo tiếng sanskrít nghĩa là ngồi cạnh nhau nói với nhau điều gì đó) mới xuất hiện tư duy triết học. Sự xuất hiện của Upanishadd được xem là cái mốc đánh dấu bước chuyển tư duy của người Ấn Độ cổ đại và sự hình thành triết học Ấn Độ cổ đại. Upanishadd đã đặt ra những câu hỏi: Thế giới là gì? Cái gì là căn nguyên của thế giới? v.v Theo Upanishadd thì Brahman là thượng đế, là vị thần tối cao, là đấng sáng tạo. Còn Atman là linh hồn cá thể, là bộ phận của linh hồn vũ trụ và có cuộc sống vĩnh cửu. Upanishadd cũng đưa ra khái niệm luân hồi (Samsara), nghiệp (Karma), nhân quả v.v Theo cách phân chia truyền thống, triết học Ấn Độ cổ đại chia thành hai hệ thống: Triết học chính thống với nghĩa là tuân thủ những định hướng của Upanishadd, thừa nhận uy quyền của kinh Veda. Triết học không chính thống (Tà giáo) với nghĩa không tuân thủ đường hướng cơ bản của Upanishadd, không thừa nhận quyền uy của kinh Veda. Nền triết học Ấn Độ cổ đại có các đặc điểm: Là sự đan xen, hòa đồng giữa những tư tưởng triết học và những tư tưởng tôn giáo. Không có sự phân chia rạch ròi giữa các trường phái duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình.
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 11 Nó đặc biệt chú trọng, quan tâm tới những vấn đề nhân sinh quan và giải quyết nó thường là dưới góc độ tâm linh giáo, tìm hướng giải thoát, siêu thoát cuộc đời khỏi vòng luân hồi. Xu hướng truyền thống của triết học Ấn Độ cổ đại là nặng về thực hành hơn là tư duy tư biện nơi mỗi cá thể con người. Trong từng học phái, những tư tưởng, quan điểm của người đề xướng thường được bảo tồn khá vững chắc, các nhà triết học hậu thế thường tìm những chứng cứ mới để bảo vệ chứ không là phê phán để phát triển tư tưởng của tiền bối. Nói chung, triết học Ấn Độ cổ đại là nền triết học rất phong phú, đa dạng. Nó đề cập hầu hết các lĩnh vực khác nhau của triết học: Lý giải về nguyên nhân của vũ trụ, vạn vật; Biện chứng đời sống tâm linh của con người: Căn nguyên nỗi khổ của đời người và con đường giải thoát; Trong sự phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa duy vật với duy tâm, biện chứng với siêu hình, vô thần với hữu thần, giữa lạc quan với bi quan yếm thế, giữa nhất nguyên với đa nguyên II. NHỮNG TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC CƠ BẢN. 1. Những trường phái triết học chính thống. 1.1 Triết học Mimansa. Kinh điển cơ bản của Mimansa là mimansa-sutra được coi là của nhà triết học Jaimini và bộ chú giải của nhà triết học Sabara. Họ thừa nhận Veda và tuân thủ truyền thống Veda, nhưng các nhà triết học của phái này không nhất quán thậm chí mâu thuẫn với truyền thống. Họ dường như là những nhà triết học duy cảm khách quan, vô thần. Họ thừa nhận vật chất tồn tại độc lập với ý thức và chỉ những vật thể nằm ngoài ý thức được cảm nhận mới tồn tại. Trên cơ sở đó họ cho rằng thần không tồn tại, do cảm giác của con người không nhận được thần, thần không quyết định số phận của con người, mà con người chịu hậu quả của chính hành vi của mình. Thượng đế cũng không là đấng sáng tạo ra tất cả. Tuy thừa nhận sự tồn tại độc lập của thế giới vật chất đối với ý thức của con người, nhưng họ lại cho rằng vật chất tồn tại vĩnh viễn do những nguyên tử cấu thành và những nguyên tử lại bị luật Karma điều khiển. Ở đây họ thể hiện rõ lập trường duy tâm. 1.2 Triết học Samkhya. Theo truyền thuyết, người khởi xướng trường phái này là nhà triết học Proto Samkhya sống giữa thế kỷ VII tcn. Samkhya là trường phái triết học nhị nguyên, họ thừa nhận sự tồn tại đồng thời của hai bản nguyên thế giới Prakriti (vật chất hay tự nhiên) và Prusa (tinh thần). Theo họ, bản chất thế giới phát triển lên từ một nguyên thể vật chất đầu tiên là Prakriti. Prakriti là cái sinh ra cái khác, nó thuần nhất, vô định hình, không biến dị, nhưng luôn vận động phát triển trong không gian, thời gian theo luật nhân quả để tạo ra tính đa dạng của tự nhiên. Purusa không là thượng đế, không là tinh thần thế giới mà là tinh thần phổ quát, vĩnh hằng, bất biến, nó tồn tại bên cạnh Prakriti. Tự nó không làm được gì, nhưng nó truyền sinh khí cho Prakriti, truyền khả năng biến hóa của nó vào các Prakriti, là yếu tố cần thiết cho mọi hoạt động của các Prakriti. Chính mối quan hệ giữa Purusa và Prakriti quyết định sự bắt đầu tiến hóa của cá nhân và vũ trụ.
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 12 Theo Kapila, nhà triết học nổi tiếng của trường phái này thì mục đích tối hậu của con người là diệt đau khổ. Để diệt đau khổ thì mọi phương diện vật chất đều không thích hợp. Cơ sở của diệt khổ là đạt tới sự hiểu biết trực giác cao nhất về linh hồn và tâm lý của con người. 1.3 Triết học Nyaya. Người khởi xướng trường phái này là nhà triết học Gauxtama. Kinh điển của nó được hệ thống hóa vào đầu thế kỷ II tcn. Triết học Nyaya gồm nguyên tử luận, nhận thức luận và lôgíc học. Về nguyên tử luận, Nyaya thừa nhận bản nguyên của thế giới là nguyên tử. Vạn vật đều do sự kết hợp của các nguyên tử mà có. Nguyên tử có đặc tính không biến đổi và tồn tại vĩnh viễn. Nhưng những sự vật, hiện tượng do nguyên tử tạo nên là nhất thời, luôn biến đổi. Bên cạnh các thực thể vật chất, Nyaya cho rằng trong vũ trụ còn có vô số các linh hồn Ya có thể ở trạng thái tự do cũng có thể kết hợp với nguyên tử. Đồng thời trong vũ trụ cũng tồn tại một lực lượng siêu nhiên là thần Isvara. Thần Isvara không là đấng sáng tạo ra linh hồn và nguyên tử, nhưng thần chỉ đạo sự phối hợp, tác động giữa các nguyên tử với nhau gây nên sự liên hệ giữa chúng. Thần Isvara vô hình có quyền năng tối cao của vũ trụ. Về lôgíc học: biện luận của Nyaya là ngũ đoạn luận gồm Luận đề - Pratijina, Nguyên nhân Hetu, Ví dụ - Udaharana, Suy đoán - Upaniaya, Kết luận - Nigamana. So với tam đoạn luận của Arixtốt thì ngũ đoạn luận của Nyaya mở rộng thêm hai phán đoán ví dụ và suy đoán. Về nhận thức luận Nyaya đề cao nhận thức kinh nghiệm. Họ thừa nhận bốn phương thức: cảm giác, kết luận, loại tỷ, bằng chứng của những người khác và các cách khác sẽ đem lại cho ta chân lý. 1.4 Triết học Vaisesika. Đây cũng là trường phái triết học nhị nguyên theo kiểu nguyên tử luận và linh hồn. Triết học Vaisesika phản ánh sự tồn tại của thế giới bằng bảy phạm trù: Thực thể; Chất lượng; Hoạt động; Tính phổ biến; Tính đặc thù; Tính vốn có; Cái phi tồn tại hay hư vô. Theo họ, ba phạm trù đầu là tồn tại hiện thực, ba phạm trù sau là sản phẩm của hoạt động tư duy, trí tuệ. Thực thể phản ánh bản chất của các sự vật, hiện tượng có chín dạng: Đất; Nước; Lửa hay ánh sáng; Gió; Không khí; Thời gian; Không gian; Linh hồn; Trí tuệ. Trong đó có năm loại thực thể là các yếu tố vật lý: đất, nước, lửa, gió, ete. Họ quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia, không có quán tính và không thể nhìn thấy được. Nguyên tử cấu tạo nên các thực thể vật lý và được phân chia thành bốn loại gây nên bốn loại cảm giác: xúc, vị, thị, khứu giác. Sự tác động kết hợp giữa các nguyên tử tạo nên vạn vật, biến vũ trụ hỗn độn thành trật tự không do thần thánh mà do năng lực vô hình, vô kiến (về sau là linh hồn thế giới) quy định. Thời kỳ đầu Vaisesika có hai loại linh hồn: cá biệt và tối cao. Về sau họ chỉ có một linh hồn toàn năng, sáng tạo vũ trụ, chỉ huy thế giới các nguyên tử và linh hồn cá biệt.
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 13 Giống như Nyaya, Vaisesika đề cao nhận thức kinh nghiệm nhưng cho rằng Tri giác, kết luận, ký ức và trực giác đem lại cho ta chân lý. 1.5 Triết học Yoga. Kinh điển cơ bản của triết học Yoga là kinh Yoga-sutra được đạo sỹ Patar Jali hệ thống hóa vào khoảng năm 150 tcn. Yoga theo tiếng sanskrít có nghĩa là liên kết hay hợp nhất tâm thế về một mối. Triết học Yoga có thể khái quát là tư tưởng triết học Samkhya cộng với thần. Nhưng thượng đế trong Yoga không là đấng sáng tạo, không dẫn dắt thế giới, không thưởng phạt con người. Trên thực tế Yoga là lý luận về phương pháp tu luyện mà người tu hành chấp nhận nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự ảnh hưởng của các giác quan và mọi sự ràng buộc với cơ thể xác thịt, với thế giới vật chất vốn là nguồn gốc của mọi vô minh và đau khổ. Theo họ, để được giải thoát đạt sự trong sạch, đạt sự hiểu biết và có năng lực siêu nhiên con người phải tu luyện kiên trì, dần dần từng bước, theo từng giai đoạn, phải tự chủ lâu dài theo “bát bảo tu pháp: 1. Giữ điều cấm kỵ và phải diệt dục (Yama). 2. Phải nội chế: dấn thân vào tu hành khổ luyện, giữ cho tâm hồn trong sạch, vui vẻ, kính cẩn (Niyama). 3. Tọa pháp: tuân thủ những quy tắc tập luyện (Asana). 4. Điều tức pháp: kiểm soát hơi thở (Prayana). 5. Chế cảm pháp: kiểm soát các giác quan, chế ngự mọi cảm xúc, xúc cảm (Pratyahara). 6. Tổng trì pháp: tập trung trí tuệ (Dharana). 7. Định: tập trung tư tưởng tinh thần cao độ, đạt tới trạng thái thôi miên (Dhyarana). 8. Tam muội pháp hay tuệ pháp: trạng thái xuất thần nhập hóa, làm chủ được tâm ý (Samadhi). Khi đạt tới đại giác, tinh thần con người thoát khỏi mọi ràng buộc của thể xác và của thế giới xung quanh, dẫn đến trạng thái nhập thần thần bí. 1.6 Triết học Vedanta. Kinh điển cơ bản của Vedanta là vedanta-sutra được coi là do nhà triết học Badarayana khởi xướng và bộ chú giải của nhà triết học Sankara. Vedanta theo tiếng sanskrít có nghĩa là kết thúc, hoàn thiện kinh veda. Theo nghĩa đó, Vedanta là kết thúc Veda và hoàn thiện Upanisad một cách khá trung thành. Đây là trường phái triết học nhất nguyên duy tâm. Theo Vedanta, cái bản chất sâu xa của mọi tồn tại, cái từ đó nảy sinh ra tất cả và để mọi cái nhập về nó khi chết là tinh thần vũ trụ tối cao, là Brahman. Brahman là thực thể tuyệt đối bất diệt, là linh hồn, là nguồn sống của vũ trụ. Linh hồn con người chỉ là sự hiện thân của Brahman. Để giải thoát khỏi mọi ràng buộc, con người cần phải dốc lòng tu luyện để linh hồn trở về đồng nhất với tinh thần vũ trụ tối cao - hợp nhất với Brahman. 2. Những trường phái triết học không chính thống. 2.1 Triết học Lokayata.
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 14 Đây là trường phái triết học nhất nguyên duy vật luôn đấu tranh chống lại triết học duy tâm và tôn giáo. Hiện kinh điển của trường phái này không còn, ta chỉ biết nó qua sự phê phán của các trường phái triết học khác đối với Lokayata. Về bản thể luận Lokayata cho rằng bản nguyên của thế giới là các nguyên tử đất, nước, lửa, không khí. Các nguyên tử này tồn tại hiện thực không thay đổi, không bị tiêu diệt nó hoạt động trong không gian và thời gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Đặc tính của các vật thể phụ thuộc vào sự kết hợp số lượng các nguyên tử. Lokayata cho rằng linh hồn chỉ tồn tại trong thể xác, ý thức chỉ nảy sinh trên thể xác của con người. Y thức, lý tính và các giác quan xuất hiện cũng do sự kết hợp của các nguyên tử. Khi các sinh vật chết sự kết hợp đó tan rã thành các nguyên tố. Về đạo đức, Lokayata kịch liệt phê phán các học thuyết tuyên truyền cho siêu thoát, chấm dứt đau khổ bằng kiềm chế mọi dục vọng. Lokayata chủ trương và đấu tranh cho mọi người quyền được hưởng mọi thú vui của cuộc sống vì đời người chỉ sống có một lần. Quan điểm này của Lokayata bị các học phái khác phê phán là “chủ nghĩa khoái lạc”. Về nhận thức luận Lokayata là duy cảm khách quan. Họ thừa nhận cảm giác là nguồn gốc duy nhất, xác thực của nhận thức. Họ phủ nhận tính hiện thực của thượng đế, linh hồn và cho rằng chỉ cái gì cảm giác biết được mới tồn tại. 2.2 Triết học Jaina. Người sáng lập ra trường này là nhà triết học Vardhamana sống đầu thế kỷ VI tcn. Ông được mệnh danh là “người đại anh hùng” (Maharvira) Triết học Jaina mang đậm màu sắc tôn giáo, chủ trương tìm con đường và phương tiện giải thoát linh hồn khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới hiện tượng, nhưng trên cơ sở phủ nhận tinh thần vũ trụ tối cao của ”Brahman”. Vì thế Jaina được xếp vào hệ thống triết học tà giáo. Jaina thừa nhận có hai bản nguyên thế giới là Jia và Atjiva. Vật chất là một trong những biến dạng của Atjiva. Vật chất (Jia) có đặc tính sờ mó được, có âm thanh, mùi, vị và màu sắc. Các cảm giác và linh hồn đều được cấu thành từ nguyên tử. Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia và không bị hủy diệt. Jaina không thừa nhận có linh hồn duy nhất và thượng đế tối cao. Họ cho rằng thế giới có nhiều linh hồn được thể hiện trong các cơ thể sống, hoặc không được thể hiện ra. Linh hồn cũng như vật chất không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại ngay từ đầu và tồn tại mãi mãi. Linh hồn là một lực lượng toàn năng, nhưng khả năng lại bị hạn chế bởi thân xác mà nó sống trong đó. Muốn giải phóng linh hồn, con người phải tu luyện đạo đức theo luật Ahimsa của Jaina là bất sát, bất bạo lực và sống khổ hạnh. Jaina là tôn giáo ra đời cùng Phật giáo và được duy trì ở Ấn Độ qua mọi biến cố của lịch sử. Khoảng đầu thế kỷ I tcn nó chia thành hai phái Không Y và Bạch Y. 2.3 Triết học Buddaha. Người sáng lập ra Buddaha (Phật giáo) là Siddharatha (Trung Quốc dịch là Tất Đạt Đà tức ý nguyện đã đạt được). Theo truyền thuyết thì Tất Đạt Đà sinh năm 563 và mất năm 483 tcn. Năm 29 tuổi, khi mà vợ ông Bà Da-da-đà-la vừa sinh cho ông người con trai La-hầu-la thì ông từ bỏ cuộc sống vương giả xuất gia tu hành tìm con đường diệt khổ cho chúng sinh. Sau 6 năm tu luyện khổ hạnh và khất thực không Giác ngộ, ông chuyển sang tu trung đạo bằng phương pháp Thiền và Tịnh trong 49 ngày dưới
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 15 gốc cây Bồ đề thì quả nhiên giác ngộ. Ông lấy hiệu là Buddaha (Trung Quốc dịch là Phật, có nghĩa là Giác ngộ). Người đời tôn xưng ông là Sakya Muni (Thích ca Mâu ni) nghĩa là nhà hiền triết của xứ Sakya. Các tư tưởng triết học Phật giáo nằm trong khối lượng sách khổng lồ gồm hàng vạn cuốn, được viết bằng cả hai thứ tiếng Pali (Nam Ấn) và Sanskrít (Bắc Ấn) từ thế kỷ III tcn, và được chia thành ba bộ phận gọi là tam tạng (Tripitaka): Tạng kinh (Sutra) ghi lại những lời Phật dạy; Tạng luật (Vinava) ghi các giới luật của Phật giáo; Tạng luận (Sastra) ghi những lời chú giải, luận giải về những vấn đề của Phật giáo do các cao tăng và cao học giả về sau viết. So với các trường phái triết học khác, Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên phạm vi thế giới. Ở Việt Nam, suốt gần hai ngàn năm du nhập và phát triển, Phật giáo với cả hai tư cách tôn giáo và triết học đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hóa và tư tưởng Việt Nam. Tư tưởng triết học Phật giáo có nhiều vấn đề. Ph.Ăngghen từng đánh giá, người ta có thể tìm thấy những tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc trong Phật giáo sơ kỳ. Sự phát triển về sau trong các tông phái Đại Thừa và Tiểu Thừa đã làm phong phú thêm rất nhiều những tư tưởng triết học sơ kỳ. Tuy phong phú nhưng những tư tưởng triết học cốt lõi của Phật giáo không ra ngoài phạm vi của những vấn đề khởi thủy về thế giới quan và nhân sinh quan sau: 2.3.1 Những tư tưởng bản thể gồm: - Lý “nhân duyên khởi”: Phật giáo bác bỏ vai trò đấng sáng tạo của Brahman và linh hồn cá thể Atman nhưng thừa nhận luân hồi, nhân quả và nghiệp của Upanisadd mà cho rằng vạn vật trong vũ trụ có nguyên nhân tự thân, không do một đấng thần linh nào tạo ra. Với ý đó Phật giáo có tư tưởng vô thần. Phật giáo giải thích tính đa dạng của tồn tại là do nhân duyên khác nhau tạo ra. Nhân duyên hội thì sự vật sinh, nhân duyên tan thì sự vật mất. Tư tưởng “sinh, trụ, dị, diệt”; “thành,trụ, hoại, không”; “sinh, lão, bệnh, tử” đều do nhân duyên hợp, tan mà ra cả. Lý “nhân duyên khởi” quan hệ chặt chẽ với lý “nhân quả”. Nhân là nghiệp lực. Quả là nghiệp lực đã thành hiện thực nhờ hội đủ duyên. Duyên có thể được xem như những điều kiện để nguyên nhân thành kết quả và ngược lại. Phật giáo coi lý “nhân duyên khởi” cũng như lý “nhân quả” là nguyên lý phổ quát tuyệt đối của mọi tồn tại, không loại trừ đối tượng nào, dù đó là vật vô tri vô giác hay những sinh vật hữu tình cho đến thế giới của Phật cũng không ra ngoài cái lý ấy. Người giác ngộ khác kẻ phàm phu chỉ ở chỗ thấu đạt hay mê mờ cái lý ấy chứ không thể bác bỏ hay tiêu diệt được cái lý ấy. - Tư tưởng “vô ngã” (Anatman), “vô thường” (Amicca): Phật giáo quan niệm vạn vật xung quanh ta và ta cùng vũ trụ đều không vượt qua cái lý vô ngã, vô thường. “Vô ngã” theo nghĩa đen là không có cái ta. Theo nghĩa triết học thì mọi sự vật, hiện tượng đều không có bản chất thường tồn bất biến. Cái gọi là “ngã”, “bản ngã” chỉ là giả. Vạn vật đều không có thực mà chỉ do ảo giác đem lại. Vạn vật do hội đủ nhân duyên thì thành “có”. Cái “có” đó không tự tính mà vốn là “không”. Đây là tư tưởng tiến bộ, cách mạng so với tư tưởng truyền thống Ấn Độ thừa nhận vạn vật có bản chất bất biến. Phật giáo coi con người và vạn vật đều do sự nhóm họp bởi duyên
- ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC - TH.S HOÀNG NGỌC VĨNH - 2004 16 danh sắc mà có, nhưng danh sắc chỉ hội tụ với nhau trong một khoảnh khắc rồi chuyển sang trạng thái khác, do vậy không có cái ta, cái bản ngã. Có hai quan niệm chia danh sắc thành ngũ uẩn là sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (tư duy), thức (ý thức) và lục đại là phong (gió, không khí), thủy (nước, chất lỏng), địa (đất, khoáng chất), hỏa (lửa, nhiệt độ), không (khoảng trống), thức (ý thức, tư duy). "Vô thường" là không thường hằng, thường trụ. Phật giáo quan niệm bản chất của tồn tại thế giới là một dòng biến chuyển liên tục, vạn vật đều trôi đi, đều biến đổi đi đến mức chúng hiện ra trước ta chỉ là ảo và giả (maya). Vì biến đổi "vô thường" nên cái thấy là không thật mà chỉ là ảo, là huyễn, là mộng, là bèo bọt, là chớp điện mà thôi. Chỉ trong một satna đã chẳng là nó nữa. Có mà không, không mà có. Vạn pháp "vô thường" nên không có vật này hay vật kia, không có cái gì là tồn tại cả mà chỉ có những danh sắc luôn biến đổi, những trạng thái luôn biến đổi. Không tìm được nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng của thế giới. Thế giới là vô tạo giả. Phật giáo như vậy là đã quá nhấn mạnh sự biến đổi mà phủ nhận sự dứng im tương đối của thế giới. 2.3.2 Những tư tưởng nhân sinh quan gồm: Đây là phần trung tâm, trọng tâm của triết học Phật giáo. Những tư tưởng triết học về thế giới quan nói trên chỉ đóng vai trò nền tảng lý luận cho việc luận chứng những tư tưởng triết học nhân sinh Phật giáo. Triết lý nhân sinh Phật giáo được xây dựng dựa trên cơ sở bác bỏ đấng sáng tạo Brahman nhưng lại tiếp nhận thuyết luân hồi (Samsara) và nghiệp (Karma) của Upanisad. - Luân hồi theo nghĩa đen là bánh xe quay tròn. Nội dung của thuyết luân hồi cho rằng vạn pháp mất ở chỗ này là để sinh ở chỗ khác, khi con người chết đi là để đầu thai vào kiếp khác. Cuộc đời con người và vạn vật như một vòng tròn khép kín theo “sinh, trụ, dị, diệt”; “thành, trụ, hoại, không”; “sinh, lão, bệnh, tử”. - Nghiệp là cái do hành động của ta gây ra. Cuộc đời hiện hữu là gánh chịu những hành vi do kiếp trước gây ra. Sự gánh chịu đó gọi là nghiệp báo. Phật giáo quan niệm nếu làm điều lành, tu nhân tích đức ở kiếp này thì có nghiệp tốt báo ứng điều lành, điều tốt ở đời sau và ngược lại. Nghiệp tạo nên sợi dây nối liền quả này với quả khác. Quá trình vận động của vũ trụ là sự điều chuyển luân hồi theo sự chi phối của nghiệp. Tư tưởng này thể hiện tính biện chứng trong triết học Phật giáo. a. Quan niệm về sự hình thành con người: Phật giáo coi con người là một pháp đặc biệt trong vạn pháp. Con người cũng được tạo nên nhờ ngũ uẩn. Trong con người có hai phần: Phần thể xác tạo bởi nhờ sự hội tụ của phong, thủy, địa, hỏa. Phần tinh thần được tạo bởi thức. Phật giáo thừa nhận có linh hồn, nhưng linh hồn phải trú ngụ trong thể xác, không có linh hồn bất biến, vĩnh hằng. Trong linh hồn chỉ có tàng thức (kho chứa ý thức) là tồn tại vĩnh hằng không tan đi theo sự chết của thể xác. b. Cốt lõi của những tư tưởng nhân sinh quan của Phật giáo tập trung chủ yếu trong “Tứ diệu đế” là luận bàn về đời người. Phải nói rằng, không có một triết lý nào chiêm nghiệm về nỗi khổ của con người thâm trầm và tha thiết như triết học Phật giáo. Theo Phật giáo bản chất con người là khổ. Đối với con người đời là bể khổ, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của bốn biển, vị mặn