Câu hỏi hướng dẫn ôn tập môn Triết học Mác - Lenin

Trong lịch sử triết học có rất nhiều quan điển khác nhau về nhận thức, nguồn gốc và bản chất của nhận thức. Lý luận nhận thức là một trong những nội dung cơ bản của triết học và là một trong những trọng tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
pdf 65 trang Khánh Bằng 29/12/2023 580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Câu hỏi hướng dẫn ôn tập môn Triết học Mác - Lenin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfcau_hoi_huong_dan_on_tap_mon_triet_hoc_mac_lenin.pdf

Nội dung text: Câu hỏi hướng dẫn ôn tập môn Triết học Mác - Lenin

  1. từng người, từng việc. Tính xu hướng của các qui luật xã hội là tự nó vạch ra con đường đi của mình thông qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Ngoài những đặc trưng chung của qui luật nói chung, qui luật xã hội còn có những đặc trưng riêng. Qui luật xã hội tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện tất yếu khách quan của lịch sử thể hiện sự hình thành và tác động của các qui luật xa hội. Ví dụ, sự hình thành giai cấp và qui luật đấu tranh giai cấp, v.v Sự tác động của qui luật xã hội đều thông qua hoạt động của con người. Do vậy, lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của qui luật xã hội và trong nhận thức của con người về nó. Nhưng kết quả tác động của những qui luật xã hội không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của từng cá nhân mà nó phụ thuộc vào lợi ích của cộng đồng người. Để nhận thức được các qui luật xã hội cần phải có phương pháp khái quát hoá và trừu tượng hoá. Bởi vì, sự biểu hiện và tác động của các qui luật xã hội thường diễn ra trong một thời gian lâu dài, có khi là trong suốt quá trình lịch sử, do đó không thể dùng thực nghiệm để thẩm định như các qui luật tự nhiên. Để nhận thức được các qui luật xã hội cần phải nghiên cứu những nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Trong hệ thống các qui luật xã hội, thì qui luật quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một qui luật chung và phổ biến nhất. Trong đó sản xuất vật chất bao giờ cũng là cơ sở cho sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội. 2. Quan hệ giữa qui luật xã hội và hoạt động có ý thức của con người Quan hệ giữa qui luật xã hội và hoạt động có ý thức của con người là mối quan hệ giữa tự do và tất yếu trong hoạt động nói chung của con người. Qui luật xã hội bao gìơ cũng tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người, nhưng con người có thể nhận thức và vận dụng thành công các qui luật xã hội thông qua hoạt động có ý thức của con người. Khi con người chưa nhận thức được các qui luật khách của xã hội, thì sự tác động của qui luật vào trong hoạt động của con người mang tính tự phát, ngẫu nhiên, buộc con người lệ thuộc vào tính tất yếu khách quan của nó. Khi con người nhận thức được các qui luật khách quan của xã hội, thì con người đã làm chủ được tính tất yếu. Tính khách quan tự phát chuyển thành tính khách quan có sự điều tiết của con người một cách tự giác. Tự do là sản phẩm của sự phát triển lịch sử khi mà con người đã có thể làm chủ được tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Điều đó có nghĩa là người tự do là người hiểu được cái tất yếu, vận dụng được cái tất yếu trong hoạt động của mình và đạt được mục đích mà mình đã đề ra. Câu hỏi 50. Phân tích nội dung sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên? 1. Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong hệ thống tự nhiên - xã hội Tự nhiên là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất vật chất và là môi trường sống của con người và xã hội loài người. Tự nhiên cung cấp những thứ cần thiết cho sự sống của con người như nước, ánh sáng, không khí, thức ăn, v.v và những điều kiện cần thiết cho hoạt động của con người như các nguyên vật liệu,, là đối tượng lao động, sản phẩm lao động, v.v Xã hội loài người là một hệ thống đặc thù của giới tự nhiên, gắn bó với tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên, chính sản xuất vật chất của xã hội là phương thức trao đổi chất giữa tự nhiên và xã hội, thông qua chu trình trao đổi chất của sinh quyển. Bởi vì xã hội có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển, từ những nguồn vật chất có hạn và tái tạo được; cũng như hiệu quả của sự trao đổi chất giữa xã hội và tự 90
  2. nhiên trong đó phải nói đến sự lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự gia tăng các chất thải công nghiệp, độc hại vừa làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, vừa gây ô nhiễm môi trường sống. Như vậy, trong sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên, yếu tố xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng nhưng cần phải tính đến sự cân bằng của hệ thống tự nhiên xã hội. Bởi vì, hệ thống tự nhiên - xã hội được hình thành trong qúa trình tiến hoá của thế giới vật chất. Sự thống nhất của hệ thống tự nhiên - xã hội được xây dựng trên cơ sở cấu trúc của sinh quyển và được bảo đảm bởi cơ chế hoạt động chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. 2. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội Lịch sử xã hội là sự tiếp tục lịch sử của tự nhiên. Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, lịch sử của tự nhiên (trong quan hệ với con người) không chỉ phụ thuộc vào sự tác động của các yếu tố tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối ngày càng mạnh mẽ của yếu tố xã hội. Ngược lại sự phát triển của xã hội không thể tách rời những yêu tố tự nhiên, bởi vì chỉ có trong mối quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau, con người mới là chủ thể của lịch sử. Sự gắn bó qui định lẫn nhau giữa lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình lao động sản xuất vật chất của xã hội. Mối quan hệ đó mang tính khách quan và là một yếu tố qui luật trong hoạt động sản xuất vật chất của xã hội; nó là lực lượng sản xuất thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên và trình độ của các quá trình sản xuất vật chất khác nhau trong lịch sử phát triễn của xã hội. Tiêu chuẩn để khẳng định mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thông qua lực lượng sản xuất chính là quá trình phát triển của công cụ sản xuất và trình độ lao động của con người. Vì vậy, sự hoàn thiện và phát triển của công cụ lao động, trình độ lao động trước hết thể hiện trình độ phát triển của xã hội và trình độ đó trực tiếp giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong giai đoạn hiện nay, con người không chỉ coi tự nhiên như là môi trường sống, mà còn là đối tượng để khai thác vì những mục đích và lợi ích khác nhau đã dẫn đến sự khủng khoảng môi trường sinh thái. Vì vậy, cần phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái, đặc biệt là đạo đức sinh thái, phải biết kết hợp giữ mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái; mặt khác cũng phải xoá bỏ dần chế độ bóc lột người như là một điều kiện, tiền đề khách quan để thiết lập lại sự cân bằng, hài hoà giữa xã hội và tự nhiên vì lợi ích của toàn nhân loại. 3. Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào nhận thức và vận dụng qui luật xã hội trong hoạt động thực tiễn Bằng hoạt động thực tiễn, con người thể hiện vai trò của mình đối với sự phát triển của tự nhiên. Cho nên, cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay đã đặt ra cho con người phải tìm cách sống hài hoà với tự nhiên, phải điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Vì vậy, con người cần phải nhận thức đúng đắn về vấn đề môi trường sinh thái, mà trước hết phải nắm vững những qui luật của tự nhiên và quan trọng hơn, phải biết vận dụng những qui luật đó một cách chính xác vào trong hoạt động thực tiễn của mình. Tuy nhiên, trong quan hệ xã hội với tự nhiên còn phụ thuộc vào các quan hệ sản xuất, vào các chế độ xã hội, vào tính chất của những điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội mà trong đó mà con người sống và hoạt động. Muốn điều khiển được những lực lượng tự nhiên cần phải điều khiển những lực lượng xã hội. Trong thời đại ngày nay, vì những mục đích và lợi ích khác nhau của những lực lượng xã hội, đã dẫn đến sự khủng khoảng môi trường sinh thái. 91
  3. Vì vậy, cần phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái, đặc biệt là đạo đức sinh thái, phải biết kết hợp giữ mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái; mặt khác cũng phải xoá bỏ dần chế độ bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa cộng sản như là một điều kiện, tiền đề khách quan để thiết lập lại sự cân bằng, hài hoà giữa xã hội và tự nhiên vì lợi ích của toàn nhân loại. Câu hỏi 51. Vai trò của dân số đối với sự phát triển của xã hội? 1. Dân số - điều kiện thường xuyên, tất yếu đối vơí sự tồn tại và phát triển của xã hội Dân số xét trong sự tồn tại và phát triển của xã hội bao gồm nhiều mặt: số lượng dân cư, việc phân bố dân cư và chất, lượng trình độ dân cư còn được thể hiện với tính cách là lực lượng lao động xã hội. Sự phát triển dân số và sự tăng, giảm mật độ dân số ở các vùng địa lý khác nhau, một mặt nó tuân theo qui luật tự nhiên, nhưng mặt khác nó lại chi phối bởi các qui luật xã hội. Số lượng dân cư và mật độ dân cư ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lao động xã hội, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến các mặt của đời sống của xã hội do tính phù hợp hay không phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - chính trị xã hội. Sự phù hợp hay không phù hợp trong phân bố dân cư, trong phân công lao động xã hội, cũng như tốc độ tăng dân số nhanh hoặc chậm đều ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - chính trị, văn hóa xã hội. Thông thường sự phát triển kinh tế - văn hóa xã hội qui định quá trình phát triển dân số. Sự bùng nổ dân số hiện nay ở trên thế giới đang đặt cho các nước, nhất là các nước chậm phát triển phải có chính sách đúng đắn về vấn đề dân số so với tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội và sự phát triển của văn hóa. Vai trò của dân số và mật độ dân số không thể giữ vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự phát triển về dân số ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động xã hội, đến sự phát triển của một cộng đồng dân tộc, của mỗi quốc gia nhất định về những vấn đề chung nào đó. Trong lịch sử triết học vẫn tồn tại quan niệm đề cao vấn đề dân số và vấn đề giải quyết sự gia tăng dân số tự nhiên theo học thuyết Mantuýt bằng chiến tranh. Quan niệm của Mantuýt là không đúng. Bởi vì, của cải vật chất của xã hội không thiếu mà thực chất là sự không công bằng trong việc phân chia của cải vật chất của xã hội. Mặt khác, với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, con người có khả năng tạo ra của cải dư thừa cho mọi người trên thế giới. Vấn đề đặt ra ở chỗ là con người phải chống lại và xóa bỏ quan hệ bóc lột dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là một trong những nguồn gốc của sự nghèo đói, dốt nát và bất bình đẳng xã hội. Câu hỏi 52. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển của xã hội? Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. Môi trường sống của con người trước hết là môi trường địa lý - các điều kiện địa lý, nhưng không phải là môi trường tự nhiên thuần túy, mà phải là môi trường tự nhiên - xã hội thể hiện môi trường sống của con người, là ngôi nhà và nơi tồn tại của xã hội loài người. Môi trường sống của con người và xã hội được phân chia thành môi trường tự nhiên và mội trường xã hội, đồng thời nó thường được gọi là môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái là môi trường sinh - địa - hoá học, hay sinh quyển (sinh quyển: là vùng lưu hành sự sống trên trái đất, là hệ thống mở về nhiệt động học, bao gồm toàn bộ sinh thể, các sản phẩm và cá chất thải trong quá trình hoạt động sống của chúng, v.v ). 92
  4. Môi trường sinh thái là điều kiện thường xuyên, tất yếu của sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lao động, tổ chức phân công lao động xã hội, qui mô và xu hướng phát triển sản xuất. Trong lịch sử triết học có quan niệm duy tâm, phản động về thuyết “địa lý”, với tư tưởng cho rằng, hoàn cảnh địa lý là nhân tố quyết định sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội. Đây cũng là một học thuyết làm cơ sở cho các học thuyết về phân biệt chủng tộc, về chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Vấn đề môi trường sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và cũng vô cùng phức tạp trong thời đại ngày nay. Nhất là sư ïkhan hiếm, cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung. Các hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”, “lỗ thủng tầng ôzôn”, mưa axít, sự tăng nhiệt độ trái đất, sa mạc hoá, v.v Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng suy thoái môi trường sinh thái hiện nay. Trước hết, là sự tác động vô ý thức do những hạn chế về tri thức khoa học công nghệ của con người giải quyết mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên trong thời gian qua và kể cả hiện nay. Song, nguyên nhân quan trọng nhất, cơ bản và sâu xa nhất của hiện trạng môi trường sinh thái hiện nay trên toàn cầu phần lớn thuộc về chế độ xã hội. Trong các chế độ xã hội đó phải nói đến quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Với tư cách là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, với qui luật cạnh tranh tự do và bóc lôt giá trị thặng dư tối đa đã biến không chỉ con người mà cả giới tự nhiên thành đối tượng bị khai thác và bóc lột. Chủ nghĩa tư bản đã từng tận dụng triệt để những thành tựu của nền văn minh công nghiệp để bóc lột con người, bóc lột tự nhiên nhằm mang lại lợi nhuận tối đa trước mắt, bất chấp những qui luật tồn tại phát triển của tự nhiên và của xã hội. Để xây dựng mối quan hệ hài hoà thật sự giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển của xã hội vì sự phát triển bền vững thì một mặt, cần phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái, đặc biệt là đạo đức sinh thái, phải biết kết hợp giữ mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái; mặt khác cũng phải xoá bỏ dần chế độ bóc lột người như là một điều kiện, tiền đề khách quan để thiết lập lại sự cân bằng, hài hoà giữa xã hội và tự nhiên. Vấn đề sinh thái và việc thực hiện sự phát triển bền vững là mục tiêu chiến lược của toàn nhân loại. Để đạt được mục tiêu đó, cần phải có sự nỗ lực hợp tác của tất cả các nuớc, các dân tộc, của mọi người và của tất cả các ngành khoa học và công nghệ trên toàn thế giới. 93
  5. Chương 10 HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI A. ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG I. SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI 1. Khái niệm sản xuất vật chất 2. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội II. BIỆN CHỨNG CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 1. Lực lượng sản xuất 2. Quan hệ sản xuất 3. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất III. BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG 1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 3. Ý nghĩa. IV. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội 2. Sự phát triển hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên 3. Ý nghĩa V. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA - Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội - Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Công nghiệp hóa, hiện đại hoá trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 94
  6. B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP Câu hỏi 53. Trình bày vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội? 1. Sản xuất vật chất Dưới dạng chung và phổ biến nhất thì sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên cải biến các dạng vật chất cần thiết cho đời sống của con người và xã hội. Đó là quá trình lao động sản xuất vật chất của con người tác động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất, hình thức cơ bản nhất của hoạt động thực tiễn xã hội, gắn liền với quá trình con người sáng tạo ra công cụ và phương tiện lao động, quá trình con người chinh phục tự nhiên và qui định lẫn nhau trong hệ thống xã hội. 2. Vai trò của sản xuất vật chất Đối lập với quan điểm biện chứng về xã hội, các nhà triết học trước Mác về cơ bản họ đều phủ nhận vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Họ cho rằng, nguyên nhân, động lực, tiêu chuẩn của sự phát triển xã hội đều do sự quyết định của ý thức, tư tưởng hoặc lực lượng siêu nhiên nào đó. Các nhà triết học duy vật trước triết học Mác cũng đã đề cập đến nguyên nhân kinh tế như là nguyên nhân chính của sự phát triển xã hội. Nhưng những quan niệm đó còn mang tính chất siêu hình, phiến diện. Khi họ tuyệt đối hoá một mặt nào đó của xã hội, v.v Quan niệm biện chứng về lịch sử của Mác theo như sự đánh giá của Ăngghen: Mác là người đầu tiên phát hiện ra những qui luật của sự phát triển xã hội, tìm ra cái thật giản đơn trước tiên con người phải ăn, uống, mặc và ở trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo, v.v Cho nên, sản xuất vật chất là một yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội. Mọi người trong xã hội đều có những nhu cầu và làm cách nào đó để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của mình như: ăn, mặc, ở, v.v và để có thể thỏa mãn những nhu cầu trên thì tất nhiên con người phải sản xuất, vì sản xuất là điều kiện cho tiêu dùng. Sự tồn tại của con người và xã hội, cũng như sự phát triển của nó đều trên cơ sở sản xuất vật chất của xã hội. Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên tất cả các hình thức của quan hệ xã hội. Hoạt động ra của cải vật chất cho xã hội còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, tiêu chuẩn khách quan khẳng định trình độ chinh phục tự nhiên của con người và sự phát triển xã hội. Câu hỏi 54. Phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội? Phương thức sản xuất là một trong ba nhân tố của sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Trong đó hoàn cảnh địa lý và dân số chỉ là những nhân tố - tất yếu thường xuyên giữ vai trò quan trọng, chứ không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội (ở đây có thể trình bày tóm tắt thêm nội dung của nhân tố hoàn cảnh địa lý và nhân tố dân số), còn phương thức sản xuất - điều kiện tất yếu quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Phương thức sản xuất là qui luật chung và phổ biến nhất của xã hội. Đó là sự tác động qua lại biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Điều đó có nghĩa là lịch sử phát triển của xã hội dù được thể hiện thông qua nhiều chế độ xã hội cụ thể 95
  7. khác nhau như: Nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa thì trong quá trình đó đều có tác động trực tiếp của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau theo qui luật khách quan vốn có của nó. Chính sự tác động ấy có tính chất qyuết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Qui luật này lại được thể hiện ở tính đặc thù trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Nghĩa là trong mỗi chế độ xã hội cụ thể sự tác động của phương thức sản xuất, là sự thể hiện của qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một giới hạn nhất định sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp với nó. Ở giới hạn đó lực lượng sản xuất mới đòi hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội, là mâu thuẫn cơ bản của các chế độ xã hội cụ thể và việc giải quyết mâu thuẫn này đều thông qua cách cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là phương thức thay thế các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể khác nhau, mà thực chất là nguồn gốc của quá trình chuyển hóa các phương thức sản xuất khác nhau trong lịch sử. Quá trình đó khẳng định phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Câu hỏi 55. Lực lượng sản xuất là gì? Tại sao nói trong thời đại ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp? 1. Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, trình độ của các quá trình sản xuất vật chất khác nhau trong xã hội. Theo một nghĩa chung nhất lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất hoặc là sức sản xuất vật chất của xã hội. Lực lượng sản xuất mang tính khách quan độc lập với ý thức của con người. Xét về kết cấu lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố, đó là: tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất: Bao gồm có tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động bao gồm có công cụ lao động và phương tiện lao động. Tư liệu lao động là những vật thể hay phức hợp vật thể mà con người sử dụng tác động vào đối tượng lao động. Trong đó công cụ lao động là yếu tố động và cách mạng nhất của lực lượng sản xuất. Lao động với trình độ sản xuất thể hiện ở kinh nghiệm sản xuất, ở kỹ năng, kỹ xảo khi sử dụng tư liệu sản xuất và năng lực sáng tạo ra công cụ và phương tiện lao động. Mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và lao động. Trong đó yếu tố lao động bao giờ cũng giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Bởi vì, hoạt động của con người sẽ trực tiếp dẫn đến sự biến đổi của đối tượng lao động theo những mục đích của mình. Đồng thời để có thể biến đổi đối tượng lao động, thì con người còn sáng tạo ra những công cụ lao động và phương tiện lao động. 2. Ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp Khoa học là một hiện tượng xã hội, đó là hệ thống những tri thức về thế giới của con người. Xét về mặt lịch sử sự phát triển của khoa học trải qua ba thời kỳ khác nhau. Thời kỳ thứ nhất từ cổ đại đến thế kỷ XV. Thời kỳ này khoa học còn mang tính hẹp thể hiện trong một số lĩnh vực nhất định, như cơ học và thiên văn học. Nhưng nó cũng đã đáp ứng được nhu cầu của sản xuất vật chất lúc bấy gìơ, về hàng hải, xây dựng, v.v Thời kỳ thứ hai, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Do nhu cầu của sản xuất khoa học thời kỳ này phát triển hết sức nhanh chóng với cơ học, toán học. Công nghiệp cơ khí và khoa học về năng lượng,v.v đã thúc đẩy quá trình sản xuất vật chất của chủ nghĩa tư bản thế giới. 96