Tàu liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non - Cao Thị Thái
Căn cứ Quyết định số 202/SGD&ĐT ngày 10/4/2013 của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa về việc thành lập Ban biên soạn tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên và Quy định về biên soạn kèm theo Quyết định
này, Phòng Giáo dục Mầm non tổ chức biên soạn Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non.
này, Phòng Giáo dục Mầm non tổ chức biên soạn Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tàu liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non - Cao Thị Thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- tau_lieu_boi_duong_thuong_xuyen_giao_vien_mam_non_cao_thi_th.pdf
Nội dung text: Tàu liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non - Cao Thị Thái
- 1. Khái quát chung: Di tích là dấu vết xa xưa do con người tạo ra còn lưu lại. Tuỳ theo giá trị mà di tích được công nhận là di sản - vốn quý của một tỉnh, một quốc gia hay toàn nhân loại. Hiện nay, nước ta ngoài hai Di sản thiên nhiên thế giới (Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng), những di tích sau đây được Tổ chức Văn hoá - Khoa học - Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản thế giới. Di sản văn hoá thế giới: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mĩ Sơn, Khu trung tâm hoàng thành Thăng Long và Thành Nhà Hồ. Di sản kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Quan họ, Hội Gióng, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và Hát Xoan. Di sản tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn và 82 bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê - Mạc ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội). Là mảnh đất có lịch sử hàng vạn năm, nổi tiếng “địa linh nhân kiệt” hàng ngàn năm, Thanh Hóa tất yếu để lại nhiều di tích lịch sử - văn hóa. Đến bất cứ đâu trên đất Thanh cũng có thể bắt gặp di tích lịch sử - văn hóa. Những cụm di tích hay di tích đơn lẻ này góp phần rất lớn tạo nên kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể (tinh thần) của quê hương chúng ta. Huyện Bá Thước núi sông kì thú gắn với các địa danh khảo cổ : Mái Đá Điều, Hang làng Tráng ; các địa danh văn hóa - lịch sử : Hang Dong (nơi Tống Duy Tân bị bắt), Mường Ống, Mường Ai nơi phát tích sử thi Đẻ đất đẻ nước; trò chơi Pồn Pôông và xường của dân tộc Mường. Mường Khoòng là đất gốc của trường ca Khăm Panh, dân tộc Thái. Thị xã Bỉm Sơn khi xưa là vùng rừng núi, chỉ có con đường thiên lí độc đạo đi qua được gọi bằng cái tên chung Quán Cháo - Đồng Giao với truyền ngôn “Cọp Đồng Giao, ma Quán Cháo” và lời dặn dò “Ai đi Quán Cháo, Đồng Giao / Má hồng để lại, xanh xao mang về”. Thế nhưng, đây chính là quê hương của Từ Thức (làng Gạo, xã Hà Lan), con người tài hoa, trí tâm nên kết được mối duyên trời. Có phòng tuyến Tam Điệp, vua Quang Trung tập kết quân tiến ra Thăng Long đại phá quân Mãn Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu - 1789. Có “Đền Sòng thiêng nhất Xứ Thanh”, thờ bà chúa Liễu Hạnh, một trong “tứ bất tử” của người Việt. Đông Sơn có lị sở quận Cửu Chân xưa (Đông Phố, nay thuộc các xã Đông Hòa, Đông Ninh), kinh đô Trường Xuân (Đông Ninh) của Lê Ngọc - người chống lại nhà Tùy, tự xưng Hoàng đế. Có nhà thờ Nguyễn Chích (tướng Khởi nghĩa Lam Sơn), Nguyễn Nghi - Nguyễn Khải (thời Lê Trung Hưng), chùa An Hoạch còn gọi là chùa Báo Ân trên núi Nhồi, xã Đông Tân. Ở Đông Sơn hiện còn trên 300 bia đá của các thời kì lịch sử khác nhau. Là quê hương của các trò diễn : Trò Rủn (Đông Khê), Trò Bôn (Đông Thanh). Hà Trung có khu lăng miếu Triệu Tường (làng Gia Miêu, Hà Long quê hương của chúa Nguyễn - vua Nguyễn). Khu lăng miếu gồm Nguyên miếu thờ Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng ; miếu Trường Quốc Công thờ Nguyễn Hoằng Dụ ; lăng Trường Nguyên của Nguyễn Kim và đền thờ Nguyễn Uông. Khi xưa hàng 11
- năm, quan lại Thanh Hóa đều phải đến làm lễ. Vua nhà Nguyễn kinh lí Bắc Hà bao giờ cũng về đây tế lễ tổ tiên. Ngoài ra, Hà Trung còn Ly cung do Hồ Quí Ly xây cất thuộc làng Đại Lại (Kim Âu) thuộc xã Hà Đông. Các ngôi chùa Linh Xứng do Lý Thường Kiệt dựng, Nguyên Hải do Nguyễn Hoàng xây, Trạch Lâm là công đức của con gái Nguyễn Hoàng, chính phi chúa Trịnh Tráng. Ngoài ra, có chùa Long Cảm tức chùa Trang Các, chùa Đan Phúc và các đền thờ Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu, Trần Hưng Đạo, đền Hàn, đền Rồng, đền Mốc, đền Đức Tôn, đền Cây Thị. Hậu Lộc cũng là đất tối cổ. Di chỉ Hoa Lộc cùng thời với văn hóa Phùng Nguyên, sơ kì đồ đồng. Di chỉ Gò Trũng cùng thời với Đa Bút. Đền thờ và lăng Bà Triệu (Triệu Lộc), gồm lăng mộ, tháp dựng trên núi Tùng và chân núi, ven quốc lộ 1A là đền thuộc làng Bồ Điền, xã Phú Điền. Lễ hội hàng năm mở vào mùa xuân. Văn Lộc (Duy Tinh xưa) có chùa Sùng Nghiêm rất nổi tiếng. Tỉnh lị gần một nghìn năm trước đóng ở đây. Hậu Lộc còn các làng nghề nổi tiếng: rèn Tất Tác (Tiến Lộc), muối Tam Hòa (Hòa Lộc), đóng thuyền Quân Phú (Xuân Lộc), đan cói Vũ Xá (Mĩ Lộc). Hoằng Hóa có thể xem là nơi hội tụ của sông núi Xứ Thanh. Chín chín ngọn Ngũ Hoa Phong và dòng sông Mẹ (Mạ, Mã) đều dồn về để nhìn núi sông, đồng ruộng Hoằng Hóa, vùng đồng bằng ven biển rộng nhất tỉnh. Cây dừa đến đây cũng dừng lại. Địa thế ấy khiến cho Hoằng Hóa thành mảnh đất “phì nhiêu”. Với di tích khảo cổ Quỳ Chữ (Hoàng Quỳ), các đền thờ, nhà thờ ghi công lao những bậc anh hùng, bậc tài danh như Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến Thành, Nguyễn Tuyên, Nhữ Bá Sĩ, Lương Đắc Bằng Là đất khoa bảng với 48 vị đại khoa cùng Bảng môn đình, tuyên dương sự học. Đây là quê hương của Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Cả Triệu “tiếng cười nhân dân”, quê hương của “Thợ mộc Thanh Hoa”. Thọ Xuân gắn với hai Vua. Xuân Lập có Khu di tích Lê Hoàn - Lê Đại Hành, ông vua mở đầu Tiền Lê ở thôn Trung Lập. Đền thờ có tổng diện tích gần 4000m2, gồm 13 gian : tiền đường, trung đường, hậu cung, sân rồng với nhiều hiện vật cổ như trống đồng, đỉnh đồng, bình hương đồng, một đĩa đá Giang Nam tương truyền do vua Tống tặng, một bức chân dung nhà vua tương truyền do thợ Trung Quốc vẽ và 14 đạo sắc phong từ năm 1674 đến năm 1887. Có nhiều câu đối, trong đó đáng chú ý là câu đối nói về hai sự tích lớn: bà mẹ nằm mộng điềm báo sinh đế vương và Thái hậu nhà Đinh khoác hoàng bào cho Lê Hoàn. Liên hoa kết thực vương đồ triệu Long Cổn thuỳ quang đế vị tôn (Mộng kết hoa sen điềm dựng nước Hoàng bào ánh chiếu xứng ngôi vua) Gần kề, có đền thờ thân mẫu Đặng Thị. Lễ hội được tổ chức vào ngày 7, 8 tháng 3 âm lịch hàng năm. Xuân Lam có Khu di tích Lam Kinh gắn với nhà Hậu Lê, Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn. Vạn Lại (Xuân Châu) là căn cứ địa chống Mạc của 12
- Nguyễn Kim, còn Yên Trường (Thọ Lập) là kinh đô thời Lê Trung Hưng trong hơn 50 năm. Lang Chánh, một địa bàn quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn. Trên núi Chí Linh (Bù Rinh) còn dấu vết vườn cam Lê Lợi ươm. Suối rượu (Huối Láu) là nơi Lê Lợi “Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Suối Lá (Huối Vớ) là nơi Nguyễn Trãi thả lá sấm truyền “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Nông Cống có Thành Nguyễn Chích và Khu di tích khởi nghĩa Hoàng Nghiêu (xã Hoàng Sơn) chống Minh. Nhiều đền thờ các danh tướng - khai quốc công thần nhà Lê: Đinh Liệt, Lê Hiểm, Võ Uy, Đỗ Bí. Nga Sơn, đất “hương hỏa” thờ Hùng Vương thứ 11 (Nga Thắng), thờ Mai An Tiêm, người con nuôi tài trí, đầy bản lĩnh của Vua Hùng. Có đền thờ Lê Thị Hoa nữ tướng của Hai Bà Trưng, đền thờ Triệu Quang Phục (Nga Thanh). Còn Thành Ba Đình là căn cứ của cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong phong trào Cần Vương Thanh Hóa, gắn liền với tên tuổi Phạm Bành, Đinh Công Tráng. Có khu kiến trúc công giáo Nga Liên, Nga Giáp, Nga Điền Là đất chiếu cói nổi tiếng, lại có rượu Điền Hộ thơm ngon nhất, nhì nước. Ngọc Lặc, Như Xuân, Như Thanh đều gắn với Khởi nghĩa Lam Sơn. Quan Hóa có Mường cổ Ca Da (gồm các xã Phú Nghiêm, Hồi Xuân, Nam Xuân, Trung Xuân, Thanh Xuân) lưu giữ văn hóa dân gian của người Thái. Quảng Xương có những di tích về An Dương Vương ; tự hào về hương Yên Duyên, dòng Cổ Khê (Quảng Hùng) ghi dấu trận huyết chiến chống quân Nguyên. Lị sở khẩn hoang của Xứ Thanh từ thời Lê Thánh Tông - Dinh điền sứ - đặt ở xã Quảng Thái bây giờ, nên tên làng vẫn còn đó - làng Đồn Điền. Tĩnh Gia là quê hương của Đào Duy Từ (Nguyên Bình), nơi tập trung các di tích thời Quang Trung : phòng tuyến thủy quân Biện Sơn, di tích Lạch Bạng, nhà thờ Bùi Thị Xuân (Hải Thanh) và khu văn hóa công giáo Ba Làng. Có nước mắm Du Xuyên nổi tiếng. Thành phố Thanh Hóa có làng Đông Sơn - di tích người Việt cổ, được lấy tên đặt cho cả một nền văn hóa - văn minh thời sơ sử : Văn hóa - Văn minh Đông Sơn. Khu di tích Tư Phố - Làng Giàng (Thiệu Dương) gắn với tên tuổi Dương Đình Nghệ, cũng là lỵ sở của Thanh Hóa thời Bắc thuộc. Còn khu thế miếu nhà Lê (Đông Vệ) thờ các vua Lê trung hưng. Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực gắn với chiến công lẫy lừng thời kháng chiến chống Mĩ, bắn rơi 47 máy bay Mĩ trong 2 ngày 3, 4 tháng 4 năm 1965. Đất này vừa là thắng cảnh thiên nhiên vừa là di tích văn hóa - lịch sử, di tích cách mạng. Thạch Thành lưu giữ nhiều di tịch về các nữ trung hào kiệt. Nàng Nga, nhân vật trong truyện thơ nôm Mường Nàng Nga - Hai Mối. Phương Hoa, người con gái đội tên chồng đi thi đậu tiến sĩ để minh oan cho gia đình nhà chồng. Liễu Hạnh công chúa, một trong “tứ bất tử” được thờ ở đền Phố Cát. Còn có Chiến khu Ngọc Trạo, khu du kích cách mạng. Một phần rừng Cúc Phương (5,5 km2) có dấu vết người Việt Cổ cũng thuộc huyện này. Thiệu Hóa, đồng bằng hạ lưu sông Chu có di tích sớm nhất, duy nhất của người Việt tối cổ, nối liền với Cồn Chân Tiên, di tích báo hiệu giai đoạn đầu thời đại đồng thau. Là quê hương của Lê Văn Hưu, sử 13
- gia đầu tiên và Nguyễn Quán Nho “Tể tướng Vãn Hà thiên hạ âu ca” (Tể tướng người làng Vạn Hà - Thiệu Hưng - làm cho thiên hạ vui vẻ, hạnh phúc). Đây là đất có nghề đúc đồng (Trà Đông, Thiệu Trung), nghề dệt nhiễu (Hồng Đô, Thiệu Đô), nghề hát chèo (Tòng Tân, Thiệu Tân), nghề “đò dọc” (Thiệu Thịnh). Triệu Sơn lưu hình ảnh Bà Triệu trên bành voi một ngà cùng đoàn quân khởi nghĩa tiến đánh thành Tư Phố. Lại có câu chuyện về Người tiều phu núi Na (Na Sơn - Nưa) được Nguyễn Dữ kể trong Truyền Kì mạn lục từ thế kỉ XVII. Thường Xuân gắn với Lê Lợi và Cầm Bá Thước. Hòn đá ngồi, nơi Lê Lợi ngẫm suy kế sách bình Ngô, Hòn đá mài mực, nơi Nguyễn Trãi dùng bút “viết thư thảo hịch một thời”. Đền thờ Dũng Thụ đại vương ở xã Ngọc Phụng là hồn cây đa hóa thành con cáo cứu Lê Lợi khi ông bị bầy chó săn của giặc Minh truy đuổi. Và đền Cửa Đặt thờ Cầm Bá Thước, vị tướng Cần Vương. Là quê hương của quế Trịnh Vạn với nghề bảo quản, khai thác quế. Phương ngôn Thanh Hóa có câu “một thanh quế Thường Xuân bằng năm ông Biển Thước” (Biển Thước là danh y Trung Hoa cổ đại). Vĩnh Lộc là có kinh đô nước ta thời nhà Hồ - thành Tây Đô di sản văn hóa thế giới. Đây cũng là quê hương chúa Trịnh, là căn cứ Khởi nghĩa Hồng Lĩnh với tên tuổi Tống Duy Tân. Đến với Yên Định là đến với Đền Đồng Cổ (Yên Thọ) thờ Thần Trống Đồng hay còn gọi là Đồng Cổ Sơn Nhân. Thời Lý Thánh Tông do có công giúp yên giặc nước nên được vua rước về thờ ở Thăng Long, làm thần tổ cả nước. Hàng năm đại thần trong triều đều đến đây thề “tận trung với vua, tận hiếu với dân, ăn ở hai lòng, thần nhân tru diệt”. Nghè Hổ Bái ở xã Yên Bái thờ vua Hùng thứ 11. Xã Định Thành có Trạng nguyên từ thờ anh em Khương Công Phụ, Khương Công Phục, người đỗ tiến sĩ nhà Đường. Lại có lăng thờ và lăng mộ các chúa Trịnh - Trịnh Tùng, Trịnh Doanh, Trịnh Giang, Trịnh Sâm. Còn cả mộ Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Nhà thờ Đào Cam Mộc ở Yên Trung, người có công đưa Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) lên ngôi. Nhà thờ Lê Đình Kiên, người lập ra Phố Hiến (Hưng Yên) nổi danh “Thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố Hiến”. Đền thờ bà Ngô Thị Ngọc Dao quê xã Định Hòa, mẹ vua Lê Thánh Tông. Đây cũng là quê hương Bà Triệu. Yên Định nổi tiếng với nghề trồng bông, kéo kén. Những con kén óng ánh tựa chiếc chén vàng như Lê Quý Đôn từng ví. Ngoài ra, còn giống dưa cải dùng để muối ngon nhất nước - Dưa Lê. Thứ Dưa Tiến (vua) ngày xưa. Từ những tổng quát di tích lịch sử - văn hóa kể trên, có thể nói Thanh Hóa quả là mảnh đất mấy ngàn năm văn hiến. 2. Giới thiệu hai di tích tiêu biểu. Thành Nhà Hồ là tên gọi dân gian của thành Tây Đô (Tây Giai, An Tôn), thuộc địa phận hai xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hoá gần 50 km. Thành được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397 nhằm chuẩn bị cho việc thay đổi triều đại và phòng thủ đất nước trước dã tâm xâm lược của triều Minh. Án 14
- ngữ quanh thành là 4 ngọn núi: Thổ Tượng ở phía bắc, Hắc Khuyển ở phía đông, Ngưu Ngọa, phía tây và Đốn Sơn, phía nam. Ngoài ra, sông Mã từ hướng tây chảy qua, sông Bưởi từ hướng đông đổ về tụ hội, vừa tạo nên bức bình phong tự nhiên che chắn, vừa làm cho nơi này thành chốn sơn thuỷ hữu tình. Chính dựa vào địa thế hiểm trở này tạo nên la thành (vòng thành ngoài cùng). Vòng thành thứ hai là thành ngoại, đắp bằng đất, khoảng 100 ngàn m3. Bao quanh là hào nước rộng 50m, sâu vài mét và luỹ tre gai dày đặc. Cuối cùng là thành nội, gần như hình vuông, chu vi 3514m, diện tích gần 1km2, xây bằng đá, ước tính 20 ngàn m3. Mặt ngoài ghép đá khối, phần lớn dài 2m, rộng 1m, dày 0,7m ; một số có kích thước 4m x 1,2m x 0,7m. Bốn cửa chính ra vào thành cũng bằng đá khối. Cửa Tiền, ngoảnh hướng nam, lớn nhất, rộng 38m, cao hơn 10m gồm 3 vòm cuốn mà vòm giữa cao 5m75 m, rộng 5,82m. Hai vòm bên đều cao 5m35, rộng 5,15m. Trong thành là hệ thống cung điện. Ngoài ra còn có đàn Nam Giao để vua tế cáo trời đất, xây trên núi Đốn Sơn, tổng diện tích khoảng 35 m2, chia làm 3 vòng, giật cấp dần lên. Đàn tế hình tròn, đường kính 4,75m, nền hình chữ nhật (23m60 x 17m). Năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, lập nên nhà Hồ, ông đã dời kinh đô từ Thăng Long về đây, gọi là Tây Đô. Thành Nhà Hồ cách đây hơn 600 năm vừa là quốc đô vừa là thành luỹ quân sự rất kiên cố. Người đời sau vô cùng kinh ngạc trước kĩ thuật xây đá nguyên khối, trung bình nặng 10 - 16 tấn, có khối nặng trên 26 tấn ở độ cao trung bình 6m mà không sử dụng chất kết dính nào, cùng tốc độ xây dựng - 3 tháng, như sử cũ đã ghi của toà thành đô này. Hồi đầu thế kỉ XX, nhà nghiên cứu người Pháp Bê-da-xi-en đã khẳng định “đây là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam”. Cũng là thành đá có giá trị, độc đáo nhất, duy nhất ở Đông Nam Á và còn lại ít ỏi trên thế giới. Thành Nhà Hồ là một trong 23 Di tích quốc gia đặc biệt, được công nhận là Di sản văn hoá thế giới năm 2011. Lam Kinh hay Lam Sơn nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 50 km về phia tây bắc. Năm 1418, Lê Lợi lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống quân xâm lược Minh, Lam Sơn quê hương ông trở thành đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa. Khởi nghĩa thắng lợi, lập nên nhà Lê, Lê Lợi - Lê Thái Tổ (1428-1433) có ý định xây dựng Lam Sơn thành Kinh đô tinh thần của vương triều - Lam Kinh. Nhưng chưa khởi công thì nhà vua băng hà, được đưa về an táng tại đây. Vừa nối ngôi, Lê Thái Tông (1433 - 1442)) đã cho dựng ngay điện thờ vua cha. Năm 1434, xây miếu Cung Từ Thái Mẫu (mẹ vua). Các đời vua Lê sau đó, kế tiếp mở mang, tôn tạo, khiến khu điện miếu ngày càng bề thế. Giáp Hải, trạng nguyên nhà Mạc (khoa thi 1538) đã từng miêu tả “Xe ghé Lam Kinh buổi tịch dương / Nhân dân, thành quách ở đôi phương / Dệt thành hàng vải quen lề cũ / Chen chúc hồ sen ngát vị hương”. 15
- Lam Kinh phía bắc tựa lưng vào núi Du Sơn, quay mặt hướng nam nhìn ra sông Chu, hai bên đông - tây là rừng núi uốn lượn. Bốn mặt tường thành, dài 314m, rộng 254m, chính diện hình cánh cung, bán kính 164m, dày trên 1m. Sông Ngọc, con sông đào, rộng 19m chảy trước cổng thành. Vượt sông bằng Tiên Loan Kiều (cầu Bạch) uốn cong, có mái che, đi khoảng 50m là giếng Ngọc, bờ và thành kè đá, có bậc lên xuống, quanh năm nước đầy, trong vắt, thả sen. Tiếp đến, qua một cái sân rộng là Ngọ Môn, có hai nghê đá đứng canh. Ngọ Môn rộng 12m, dài 14,1m, 2 tầng mái, 3 gian, 3 cửa. Sau Ngọ Môn là Sân Rồng, diện tích hơn 3.500 m2, lát gạch. Hai bên Sân Rồng là nhà tả vu, hữu vu (nhà phục vụ). Sân Rồng lên Chính Điện theo 3 lối, 9 bậc, rộng 5,64m gọi là Thềm Rồng. Lan can Thềm Rồng đều tạc bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên lối đi giữa dáng “long hí châu” (rồng vờn ngọc). Hai lối bên dáng “long vân” (mây hóa rồng). Chính Điện, bề ngang 38m, sâu 46m, cao 1,8m so với Sân Rồng, gồm 3 toà 2 tầng mái theo hình chữ “công” (I). Điện phía trước là Quang Đức, ở giữa là điện Sùng Hiếu, sau cùng là điện Diên Khánh. Phía tây Chính Điện có 2 điện thờ thân phụ và hai anh Lê Thái Tổ, mỗi điện 5 gian. Phía đông, nhà ở của quan lại và binh lính trông coi. Sau Chính Điện lại một sân hình cánh cung, lát gạch vuông, chiều dài 177m, có 9 khoảng cách chiều sâu khác nhau. Tiếp đến là 9 toà Thái Miếu - khu “nhà thờ” của dòng tộc vua Lê, cao hơn mặt sân 90cm, mỗi toà đều 3 gian, 36 hàng cột, nền gạch vuông, lát chéo, diện tích 200 m2, 5 bậc lên xuống, lan can tạc 2 con rồng bằng đá nguyên khối. Lối đi giữa các Thái Miếu đều rộng 4m. Lam Kinh còn gồm cả hệ thống lăng tẩm với bia ghi công đức, là nơi an nghỉ của các vua Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông và Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Thánh Tông. Ngoài ra, vua Lê Nhân Tông (con Thái Tông) và Huy Gia Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Huyền (mẹ Hiến Tông) cũng được táng ở đây nhưng hiện nay lăng không còn. Khu thành điện Lam Kinh mang dáng vẻ trang nghiêm, huy hoàng của hoàng thành, vẻ linh thiêng, trầm mặc của tôn miếu giữa một vùng sông núi hữu tình. Thời xưa, hàng năm, các vua cùng triều đình nhà Lê đều về đây bái yết. Ngày nay, vào 21 tháng 8 âm lịch, ngày giỗ Lê Lợi - Lê Thái Tổ, nhân dân Thanh Hoá lại làm lễ trọng để tưởng nhớ trong 3 ngày. Khách thập phương nô nức kéo về tham gia Lễ hội Lam Kinh. III. HƯỚNG DẪN HỌC 1. Kể tên các di tích lịch sử, văn hóa ở tỉnh ta theo mẫu sau: T T Tên di tích Địa chỉ Đặc điểm nổi bật 16
- 2. Suy ngẫm của bạn trước những di tích văn hóa - lịch sử Thanh Hóa. 3. Viết bài giới thiệu một danh thắng hoặc di tích của tỉnh hoặc ở địa phương. 4. Tổ chức tham quan học tập một số di tích. BÀI 3 (2 tiết) KHO TÀNG VĂN HỌC DÂN GIAN THANH HÓA I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Nắm khái quát kho tàng văn học dân gian Thanh Hóa. 2. Xây dựng được kho tư liệu về một hoặc một vài thể loại. 3. Có ý thức giữ gìn, phát triển, truyền bá kho tàng này. 4. Giáo dục tình yêu, niềm tự hào về quê hương. II. BÀI HỌC Kho tàng văn học dân gian (VHDG) Thanh Hóa là sáng tác của tất cả các dân tộc anh em cư trú trên mảnh đất này, được thể hiện trên ba loại hình : tự sự dân gian, trữ tình dân gian, triết lí dân gian với nhiều thể loại khác nhau (thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện thơ, cổ tích, truyện cười, vè, ca dao, dân ca, phương ngôn, tục ngữ, truyện ngụ ngôn, ). Cũng như văn học dân gian nói chung, VHDG tỉnh ta tập trung vào ba chủ đề lớn mà nhân dân muốn thể hiện: quan hệ với thiên nhiên, quan hệ xã hội (nội bộ, giai cấp, ngoại bang) và bộc lộ đời sống, tâm hồn, tình cảm. Xin giới thiệu hai loại hình chính. A. LOẠI HÌNH TỰ SỰ 1. Tự sự dân gian Thanh Hóa, cũng như tự sự dân gian của dân tộc ta, thần thoại, sử thi kể về cuộc sáng tạo thế giới, đất nước, quê hương của các vị thần. Ví dụ Thanh Hóa vốn không có núi, chỉ có sông nhưng do cuộc chiến tranh giữa Thần Sông và Thần Núi, Thần Núi đem quân trấn giữ bên các dòng sông tạo nên núi sông Thanh Hóa. Lại kể trong số các tướng của thần núi có đoàn quân của tướng Cóc là dũng mãnh nhất nên được giao trấn giữ sông Mã. Vì vậy, hai bên bờ sông Mã đoạn từ Kiểu (Yên Định) lên đến Cẩm Thủy các núi đều có hình con Cóc. Dân tộc Mường có sử thi Đẻ đất đẻ nước, dài 8000 câu giải thích sự ra đời của trời, đất, người và muôn loài. Ở thể loại này còn có chuyện các ông khổng Lồ, các dũng sĩ cải tạo, chinh phục tự nhiên làm cho quê hương yên bình, tươi đẹp. Mỗi một địa bàn xứ Thanh đều có một ông như thế. Ông Cõng Đá ở 17
- Tĩnh Gia, ông Nưa ở Nông Cống, Thiệu Hóa có ông Vồm, ông Go, Sầm Sơn có thần Độc Cước, Rồi ông Tần lấp biển, ông Quận chiến thắng Thần Biển, Như Chuyện Ông Bưng ở Hoằng Qùy, Hoằng Hóa tổ hợp trong đó là hình tượng người anh hùng thần thoại, dũng sĩ dân gian, anh hùng lịch sử, anh hùng văn hóa. Ông đi lấy củi, bóng che rợp cả một vùng. Vứt gánh củi, một đầu thành rừng tre, một đầu thành rừng lim cách nhau đến mười lăm ki lô mét thuộc hai xã Hoằng Quỳ, Hoằng Vinh. Ông gánh hai quả núi thuộc dãy Đường Trèo (vùng Kim Tân - Thạch Thành) về tô điểm cho quê hương có cả núi - sông - đồng - ruộng. Ông Bưng chính là Lê Phụng Hiểu, người anh hùng có công dẹp loạn tam vương thời Lý và đánh tan giặc Chiêm Thành quấy rối bờ cõi nước ta. Lê Phụng Hiểu lại gắn liền với sự tích thác đao điền - ruộng ném đao. Tương truyền, Lê Phụng Hiểu được vua ban đất, ông xin đứng trên ngọn núi quê nhà quăng đao đến đâu thì đất phong đến đấy. Ngọn đao rơi xuống tận địa phận Đa Mĩ (Hà Trung). Vết đao cày lên một đoạn, sau biến thành con sông Hoạt. Gần như dân tộc nào, địa phương nào cũng có những câu chuyện về tên suối, tên khe, tên đất, tên làng Dân tộc Thái có truyện cổ tích Sự tích rượu cần, 2. Truyền thuyết xoay xung quanh những vị anh hùng chống giặc ngoại xâm mà dấu ấn còn in đậm trên mảnh đất này. Có hai hệ thống truyền thuyết tiêu biểu là hệ thống truyền thuyết về Bà Triệu và Lê Lợi. Bà Triệu theo truyền thuyết là vị nữ anh hùng vừa có yếu tố khổng lồ (vú dài 8 thước), vừa là vị nữ tướng xinh đẹp (Nhụy Kiều tướng quân), có sức mạnh thần kỳ (trị voi một ngà), cũng rất đức hạnh (tự tử vì phải chứng kiến hành động đe tiện của quân giặc). Hệ thống truyền thuyết về Lê Lợi và Khởi nghĩa Lam Sơn với gần 100 chuyện, tập trung vào bốn chủ đề. Chủ đề 1, chứng minh, khẳng định tính cứu tinh, chân chúa của Lê Lợi. Chủ đề 2, các chuyện mang tính khai sáng quê hương, đất nước của vị anh hùng. Chủ đề 3, tôn xưng, ca ngợi Lê Lợi. Chủ đề 4, gắn với những anh hùng của cuộc khởi nghĩa. Chẳng hạn sự tích về Hồ Gươm, về chiếc gươm thần, sự tích núi Dầu, hòn đá Liễu Thăng, cánh đồng Mẫu Hậu, chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Hệ thống truyền thuyết về phong trào Cần Vương với những vị lãnh tụ anh hùng, liệt sĩ Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước, Hoàng Bật Đạt và truyền thuyết về các ông tổ ngành nghề. . Hệ thống giai thoại lại tập trung kể những câu chuyện tốt đẹp, thú vị về các danh nhân:Lê Văn Hưu, Nguyễn Quán Nho. Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, 3. Hệ thống truyện thơ, kể chuyện bằng văn vần, dân tộc Kinh có Phương Hoa, Từ Thức. Các dân tộc ít người, có Chương Han, Khăm Panh (Thái) ca ngợi anh hùng bộ tộc. Nàng Nga - Hai Mối (Mường), Út Lót - Hồ Liêu, Khua Lù- Nàng Ủa; Ú Thềm - Xi Thuần (Thái) là những bản tình ca. Tiếng hát làm dâu (H.Mông) là lời than thở. Vè bằng văn vần mang hai đặc điểm truyện và ca. Gồm truyện vè, ca vè lịch sử (vè Ông Ninh, Ba Đình, ), truyện vè ngụ ngôn (Hẻo, Cưỡng tranh tụng - 18