Tài liệu Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay Việt Nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng
trong kinh doanh và trước pháp luật. Nhưng không có nghĩa là chúng có vị trí như nhau
trong nền kinh tế. Phạm vi hoạt động của thành phần này càng ngày càng giảm nhưng
vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nó tồn tại trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế để nhà nước có đủ sức thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, khắc phục những khiếm
khuyết của thị trường. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà nước can thiệp
vào kinh tế thị trường điều tiết thị trường theo mục tiêu của nhà nước đã đặt ra và theo
đúng định hướng chính trị của nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực kinh doanh mang lại ít
lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận (mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư), do
đó nó phục vụ nhu cầu chung của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích công cộng.
Hơn nữa, doanh nghiệp Nhà nước còn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi vốn lớn
mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư, do đó mà doanh nghiệp nhà nước
lại càng có vai trò quan trọng. Việc đánh giá vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước
không chỉ dựa vào sự lời lỗ trước mắt mà phải tính đến hiệu quả kinh tế lâu dài. Sự tồn
tại của doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. Để doanh nghiệp nhà nước
phát huy vai trò chủ đạo của mình, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách quản lý thích
hợp đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cũng phải tôn trọng quy luật kinh tế khách
quan, để các doanh nghiệp nhà nước không là gánh nặng cho nhà nước về kinh tế mà
kinh tế nhà nước phải được sắp xếp lại cho hợp lý nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước.
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng
trong kinh doanh và trước pháp luật. Nhưng không có nghĩa là chúng có vị trí như nhau
trong nền kinh tế. Phạm vi hoạt động của thành phần này càng ngày càng giảm nhưng
vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nó tồn tại trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế để nhà nước có đủ sức thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, khắc phục những khiếm
khuyết của thị trường. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà nước can thiệp
vào kinh tế thị trường điều tiết thị trường theo mục tiêu của nhà nước đã đặt ra và theo
đúng định hướng chính trị của nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực kinh doanh mang lại ít
lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận (mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư), do
đó nó phục vụ nhu cầu chung của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích công cộng.
Hơn nữa, doanh nghiệp Nhà nước còn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi vốn lớn
mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư, do đó mà doanh nghiệp nhà nước
lại càng có vai trò quan trọng. Việc đánh giá vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước
không chỉ dựa vào sự lời lỗ trước mắt mà phải tính đến hiệu quả kinh tế lâu dài. Sự tồn
tại của doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. Để doanh nghiệp nhà nước
phát huy vai trò chủ đạo của mình, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách quản lý thích
hợp đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cũng phải tôn trọng quy luật kinh tế khách
quan, để các doanh nghiệp nhà nước không là gánh nặng cho nhà nước về kinh tế mà
kinh tế nhà nước phải được sắp xếp lại cho hợp lý nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước.
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- tai_lieu_mot_so_van_de_ly_luan_ve_co_phan_hoa_doanh_nghiep_n.pdf
Nội dung text: Tài liệu Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
- thôi việc mất việc tại thời điểm cổ phần hoá hoặc sau khi người lao động chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần trong 5 năm đầu, kể từ khi công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán, để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã hội. Về xác định giá trị doanh nghiệp: Cho phép áp dụng nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá, đồng thời quy định tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá như cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ chỉ định người đại diện làm chủ tịch hội đồng, cơ quan tài chính (cung cấp) cử người đại diện làm chủ tịch hội đồng; hoặc lựa chọn công ty kiểm toán và tổ chức kinh tế có chức năng định giá. Giá trị quyền sử đụng đất được tính vào giá trị doanh nghiệp đối với diện tích đất nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng; doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai. Xác định lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá được so với lãi suất của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất. Cho phép tính giá trị thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp, nếu rõ ràng thì được thị trường chấp nhận. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp là cơ sở xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Toàn bộ giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá do bộ trưởng các bộ, chủ tịch UBND tỉnh thành phố quyết định, trừ trường hợp giá trị doanh nghiệp thực tế nhỏ hơn so với trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên, thì cần phải thoả thuận bằng văn bản của bộ tài chính. Qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Về quy trình cổ phần hoá thì nhà nước đã có hướng dẫn cụ thể trong nghị định 64/2002/ NĐ-CP đồng thời phải tuân thủ theo quy định của pháp luật hiện hành của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc cho phép thành lập công ty cổ phần phải do cơ quan có thẩm quyền thành lập doanh nghiệp nhà nước đó đồng ý và được sự đồng ý của cơ quan chủ quản và ban chỉ đạo cổ phần hoá cho phép tiến hành cổ phần hoá. Sau khi hoàn thành các thủ tục trên thì doanh nghiệp có quyết định cổ phần hoá sẽ phải tiến hành định giá doanh nghiệp, tiến hành kiểm toán để xác định tình hình tài chính của doanh nghiệp rồi mới làm đơn xin phép thành lập công ty cổ phần. Thứ nhất các sáng lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập đến uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương nơi dự định đặt trụ sở chính. Trong đơn thành lập công ty phải kèm theo phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty. Sau khi được chấp nhận thì công ty phải đăng ký kinh doanh bao gồm giấy phép thành lập, điều lệ công ty và giấy tờ chứng thực trụ sở giao dịch của công ty. Việc tiến hành đăng ký kinh doanh phải được tiến hành trong một năm. 9/17
- Ngoài ra còn phải đảm bảo một số quy định sau: các sáng lập viên phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ phiếu dự tính phát hành của công ty. Trong trường hợp các sáng lập viên không đăng ký mua tất cả cổ phiếu của công ty thì họ phải công khai kêu gọi vốn từ những người khác. Các sáng lập viên phải gửi tất cả số tiền đã góp của người đăng ký mua cổ phiếu vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng trong nước kèm theo danh sách những người đăng ký mua số cổ phiếu và số tiền mỗi người đã góp. Số tiền gửi chỉ được lấy ra khi công ty đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc sau một năm kể từ ngày cấp giấy phép thành lập công ty không thành lập được Các sáng lập viên triệu tập đại hội đồng thành lập để thông qua điều lệ công ty và các thủ tục cần thiết khác. Công ty cổ phần có thể được uỷ ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương nơi công ty cổ phần đặt trụ sở chính cho phép phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Nếu có đủ tiêu chuẩn và điều kiện phát hành cổ phiếu. 10/17
- Kinh nghiệm của trung quốc và thành phố hồ chí minh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Kinh nghiệm của trung quốc và thành phố hồ chí minh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Kinh nghiệm Trung Quốc. Trung Quốc là một nước sớm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong những thập niên trước đây, do áp dụng một cách giáo điều mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp của các nước Liên Xô và Đông Âu, cùng với tư tưởng đồng nhất chế độ công hữu với kinh tế, nên quy mô doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc luôn chiếm tới 90% tổng tài sản quốc gia. Để thực hiện một trong những nhiệm vụ cơ bản là cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc đã sớm đề ra nhiều chính sách cải cách: như mở rộng nhường quyền và nhường lợi ích xí nghiệp, thực hiện khoán lợi nhuận tuy nhiên các chính sách này vẫn nằm trong khuôn khổ duy trì, giữ nguyên hiện trạng mà chưa thay đổi căn bản chủ sở hữu, do đó chưa tạo ra chuyển biến tích cực trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Từ những năm 1980, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước (thông qua hình thức hợp đồng và cho thuê) Trung Quốc bắt đầu vào chương trình cải cách sở hữu theo 3 hướng : - Thành lập công ty cổ phần, cổ đông bao gồm nhà nước, tập thể, cá nhân; đối với doanh nghiệp lớn và vừa nhà nước nắm cổ phần khống chế. - Phát triển ở mức độ nhỏ loại hình doanh nghiệp tư nhân. - Phát triển các mô hình doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chương trình thí điểm cổ phần hoá được đề ra trong "Quy định về đi sâu cải cách, tăng cường sức sống doanh nghiệp của Trung ương" tháng 12/1986. Tuy nhiên, chương trình này chỉ thực sự phát triển mở rộng từ sau năm 1992 khi Quốc vụ viện và Nhà nước Trung Quốc phê chuẩn văn kiện "Các biện pháp thí điểm cổ phần xí nghiệp" và "Ý kiến quy phạm công ty hữu hạn cổ phần". Các biện pháp cổ phần hoá được quy định bao gồm : 11/17
- - Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp thông qua bán cổ phiếu và cải biến doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế. Đây là loại doanh nghiệp nhà nước cổ phần. - Bán phần lớn giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước thông qua bán cổ phiếu cho mọi đối tượng, trong đó Nhà nước là một cổ đông song không nắm cổ phần khống chế. Đây là loại Công ty cổ phần thuần tuý. - Bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân để hình thành các công ty tư nhân hoặc các công ty cổ phần. Đây có thể coi là biện pháp tư nhân hoá hoàn toàn. - Giữ nguyên vốn Nhà nước và gọi thêm vốn của các cổ đông khác để chuyển thành công ty cổ phần. - Nhà nước góp vốn với tư nhân để hình thành công ty cổ phần mới. Theo con số thống kê cuối năm 1992, Trung Quốc có khoảng 3.700 xí nghiệp cổ phần hoá trong đó 750 xí nghiệp nguyên là quốc doanh được chuyển đổi. Đến cuối năm 1993 số xí nghiệp cổ phần hoá trong cả nước trong năm lên tới 2.540 xí nghiệp, trong đó có 218 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế giảm từ 80,7% (năm 1978) xuống còn 57% (năm 1994). Tuy nhiên con số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vẫn lớn chiếm tới 49,5% (kim ngạch thua lỗ 34,4 tỷ NDT). Một thực trạng đối với xí nghiệp cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế vẫn không thay đổi được cơ chế quản lý (ban lãnh đạo cũ), hoạt động kinh doanh theo lối cũ làm cho xí nghiệp chưa thể vận hành theo nguyên tắc thị trường). Trong bản báo cáo về "Vấn đề bảo đảm quyền lợi và lợi ích của cổ phần nhà nước trong xí nghiệp cổ phần" tháng 6/1994 của ông Phạm Nhạc - Phó cục trưởng Cục quản lý cổ phần nhà nước còn nêu ra 3 tồn tại khác gồm: "Một là, đại diện quyền sở hữu nhà nước trong công ty cổ phần không rõ ràng, không hoàn toàn đại diện cho nhà nước. Hai là, tỷ trọng cổ phần nhà nước có xu thế suy giảm rõ rệt, các công ty cổ phần ban đầu mới thành lập, cổ phần nhà nước đều chiếm trên 50%, nhưng sau đó cổ phần nhà nước cứ giảm dần, có công ty hàng năm giảm 10%. Ba là, cổ phần nhà nước không thể vận hành (mua bán) nên về cơ bản trong tình trạng ngưng trệ, vốn nhà nước rất khó bảo tồn và tăng giá trị". Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc sau giai đoạn này đã được đẩy lên một bước mới. Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 14 coi việc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện là nhiệm vụ trung tâm trong kế hoạch 5 năm lần thứ 9 (1993-1997). 12/17
- Theo đó các xí nghiệp mới mang bốn đặc trưng : - Quyền sở hữu tài sản rõ ràng. - Quyền lợi và trách nhiệm của mọi chủ thể rõ ràng - Chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau - Quản lý khoa học. Trên cơ sở này, doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành 5 loại: - DN nhà nước : gồm các doanh nghiệp lớn có vị trí then chốt, do Nhà nước quản lý và sở hữu. - Công ty chung vốn đầu tư nhà nước : Gồm các doanh nghiệp công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà nước sở hữu trên 51%. - Công ty cỡ lớn và vừa, không quan trọng lắm về chiến lược, nhà nước sở hữu dưới 50%. - Các tập đoàn do nhà nước sở hữu : Đó là những doanh nghiệp có mạng lưới rộng khắp cả nước, tổ chức dưới mô hình tập đoàn. - Các doanh nghiệp nhỏ được sắp xếp, hợp nhất tạo thành các công ty mới liên doanh với tư nhân, nước ngoài, hoặc giải thể phá sản. Nhiều biện pháp mới liên quan đến cổ phần hoá được áp dụng như thành lập Công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ phần hoá thành công ty con của Công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hoá Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc đã cổ phần hoá và thành lập mới được khoảng 9.200 Công ty cổ phần với tổng vốn đăng ký khoảng 600 tỷ NDT, trong đó cổ phần nhà nước chiếm 43%. Như vậy sau gần 20 năm thực hiện cải cách mở cửa và cải cách thể chế kinh tế (trong đó có cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là hướng đi chính của cải cách chế độ sở hữu), Trung Quốc đã thu được nhiều thắng lợi, tuy cũng có những vấp váp, thất bại, nhưng nhìn chung con đường cải cách của Trung Quốc là đúng đắn và được sự ủng hộ của nhân dân. Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở Trung Quốc: 13/17
- - Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần hoá, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội : Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, chứ không bán toàn bộ tài sản Nhà nước. - Hình thức cổ phần hoá áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có khả năng phát triển. - Áp dụng tỷ lệ bán cổ phần đa dạng. Chẳng hạn như ở Thẩm Quyến, cổ đông tư nhân chiếm tới 12%, ở Thượng Hải chỉ có 8,5% trong đó tư nhân ở nước ngoài chiếm tới 41%. - Cổ phần hoá muốn phát triển và mở rộng phải có sự gắn kết với thị trường chứng khoán. Đặc biệt, Trung Quốc đã xoá bỏ sự phân biệt giữ cổ phiếu Nhà nước (cổ phiếu A) và cổ phiếu của các cá nhân, pháp nhân (cổ phiếu B) gọi chung là cổ phiếu đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư. - Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần hoá, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn đầu tư. • Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm thành phố Hồ Chí Minh - Năm 1999: Có 42 doanh nghiệp đã được thông qua ban đổi mới doanh nghiệp thành phố trong số này đã có 35 doanh nghiệp có quyết định chuyển thể từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần; 5 doanh nghiệp gửi đề án trình TW (doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng) và 2 doanh nghiệp đang hoàn tất hồ sơ trình chuyển thể. - Năm 2000: Có 23 doanh nghiệp đã được thông qua ban đổi mới quản lý doanh nghiệp thành phố, trong số này có 18 doanh nghiệp đã có quyết định chuyển thể từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần và 5 doanh nghiệp đang hoàn tất hồ sơ trình chuyển thể. - Năm 2001: Có 32 doanh nghiệp được thông qua đề án cổ phần hoá trong đó 28 doanh nghiệp đã có quyết định chuyển thể và 4 doanh nghiệp đang trình hồ sơ, chờ quyết định chuyển thể. Sau cổ phần hoá số lượng lao động tăng 10% với thu nhập tăng 20 %. Điều này khuyến khích người lao động yên tâm làm việc, cống hiến hết khả năng của mình vào công việc. 14/17
- Sau khi cổ phần hoá bình quân giá trị vốn nhà nước chỉ chiếm 25% trong cơ cấu vốn điều lệ, còn lại là vốn của các cổ đông là cán bộ công nhân viên chức và cổ đông ngoài doanh nghiệp chiếm 75 %. Như vậy cổ phần hoá đã thực hiện được mục tiêu thu hút rộng rãi các các nguồn vốn của người lao động trong cả doanh nghiệp và ngoài xã hội để phát triển doanh nghiệp. Tuy nguồn vốn của nhà nước chỉ chiếm 25% tổng số vốn của công ty cổ phần, vốn của các đối tượng khác chiếm 75%, nhưng lại là nguồn vốn phân tán, do dó phần sở hữu của nhà nước trong các công ty vẫn giữ vai trò trọng yếu, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Bài học kinh nghiệm từ quá trình cổ phần hoá ở thành phố Hồ Chí Minh: Từ thực tế cổ phần hoá của cả nước mà điển hình là thành phố Hồ Chí Minh cho thấy việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần chẳng những giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước đây, nhà nước cũng thu hồi vồn để đầu tư cho các doanh nghiệp khác. Vai trò của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng có sự đổi khác họ vừa làm việc cho công ty cổ phần vừa là chủ sở hữu công ty trên cơ sở đồng vốn của mình. Vì thế ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá nhạy bén năng động tự chủ hơn trước. Nhờ đó mà chất lượng hiệu quả công việc cũng cao hơn trước, các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng tăng lên. Cổ phần hoá đã đem lại lợi ích cho cả nhà nước, người lao động và cổ đông của doanh nghiệp. Từ thực tế đó đã chứng minh rằng chủ trương của Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá là hoàn toàn đúng đắn. 15/17
- Tham gia đóng góp Tài liệu: Một số vấn đề lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của doanh nghiệp nhà nước Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: nội dung và qui trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Kinh nghiệm của trung quốc và thành phố hồ chí minh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: 16/17
- Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả. Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring. Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới. 17/17