Tài liệu Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp

Kinh doanh thực phẩm là một quá trình bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn, nhiều bộ
phận phức tạp và liên tục có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau. Kết quả của khâu này
bộ phận này có ảnh hưởng tới chất lượng của các khâu khác hay toàn bộ quá trình kinh
doanh, trong đó khâu tiêu thụ sản phẩm được đánh giá là khâu then chốt quyết định đến
sự thành bại của doanh nghiệp. Sản xuất được mà không tiêu thụ được hay sản phẩm
thực phẩm tiêu thụ chậm thì làm cho doanh nghiệp đó kinh doanh lỗ rồi dẫn tới phá sản.
Thực phẩm là một nhân tố quan trọng đối với toàn xã hội nói chung và đối với mỗi con
người nói riêng. Thực phẩm cung cấp cho con người những chất dinh dưỡng như: tinh
bột, chất béo, các loại vitamin, prôtêin và các chất khoáng khác… giúp con người có sức
khoẻ để tồn tại và lao động, phát triển. Tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối
giữa cung và cầu thực phẩm trên thị trường. Thực phẩm có thể ở dạng tự nhiên hay là
đã qua chế biến, sản xuất sản phẩm rồi được tiêu thụ tức là vấn đề sản xuất kinh doanh
thực phẩm được diễn ra bình thường, liên tục tránh được những mất cân đối trong cung
và cầu về hàng thực phẩm. Doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm có nhu cầu sử dụng các
nguồn lực của xã hội để bảo đảm đầu vào cho sản xuất như nguyên liệu, vốn, nhân lực,
thiết bị máy móc, công nghệ… đã tác động tới một loạt các hoạt động khác, các lĩnh vực
kinh doanh khác như người chăn nuôi, trồng trọt, yếu tố con người, yếu tố văn hoá xã
hội. Tức nó đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới sự phát triển của các ngành khác hay
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 
pdf 43 trang hoanghoa 09/11/2022 3000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_ly_luan_chung_ve_kinh_doanh_thuc_pham_cua_doanh_ngh.pdf

Nội dung text: Tài liệu Lý luận chung về kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp

  1. mSP: Mức sử dụng vật tư cho đơn vị sản phẩm n: Số sản phẩm sản xuất (khối lượng công việc) - Tính theo mức chi tiết sản phẩm n Nct = ∑1 Qct.mct Nct: Nhu cầu vật tư để sản xuất các chi tiết sản phẩm trong kỳ Qct: Số lượng chi tiết sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch mct: Mức sử dụng vật tư cho một đơn vị chi tiết sản phẩm n: Số chi tiết sản xuất - Tính theo mức của sản xuất tương tự Nsx = Qsp.mtt. Kđ Nsx: Nhu cầu vật tư tiêu dùng để sản xuất sản phẩm trong kỳ Qsp: Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch mtt: Mức tiêu dùng vật tư của sản phẩm tương tự Kđ: hệ số điều chỉnh giữa 2 loại sản phẩm - Tính theo mức của sản phẩm đại diện Nsx = Qsp. mđd Nsx: Nhu cầu vật tư tiêu dùng để sản xuất sản phẩm trong kỳ Qsp: Số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch ∑ msp.Ksp mđd: mức sử dụng vật tư của sản phẩm đại diện mbq ( ∑ Ksp ) (Với Ksp: tỷ trọng từng cỡ loại trong tổng khối lượng sản xuất, %) b. Phương pháp tính dựa trên cơ sở số liệu về thành phần chế tạo sản phẩm 9/41
  2. Nhiều loại sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, sản phẩm đúc, sản phẩm bê tông được sản xuất từ nhiều loại nguyên, vật liệu khác nhau, thì nhu cầu được xác định theo 3 bước. Bước 1: Xác định nhu cầu vật tư để thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm (NVT). n NVT = ∑1 Q.H Q: Khối lượng sản phẩm sản xuất theo kế hoạch tiêu thụ trong kỳ H: Trọng lượng tinh của sản phẩm (kg, tấn, m2) n: Số lượng sản phẩm sản xuất. Bước 2: Xác định nhu cầu vật tư cần thiết cho sản xuất có tính tổn thất trong quá trình sử dụng. NVT Nsx = Kt (Kt: hệ số thu thành phẩm) Bước 3: Xác định nhu cầu về từng loại vật tư hàng hoá Nx = Nsx.h Nx: Nhu cầu của từng loại vật tư, hàng hoá h: Tỷ trọng của từng loại so với tổng số c. Phương pháp tính nhu cầu dựa trên cơ sở thời hạn sử dụng Pvt Nsx = t Pvt: nhu cầu hàng hoá cần có cho sử dụng t: Thời hạn sử dụng d. Phương pháp tính theo hệ số biến động Nsx = Nbc. Tsx . Htk Nbc: Số lượng vật tư sử dụng trong năm báo cáo Tsx: Nhịp độ phát triển sản xuất kỳ kế hoạch 10/41
  3. Htk: hệ số tiết kiệm vật tư năm kế hoạch so với năm báo cáo Nghiên cứu thị trường đầu vào Đây là quá trình nghiên cứu, phân tích các thông tin về thị trường đầu vào nhằm tìm kiếm thị trường đáp ứng tốt nhất nhu cầu vật tư cho sản xuất của doanh nghiệp. Vì thị trường vật tư là thị trường yếu tố đầu vào của sản xuất nên mục tiêu cơ bản nhất của nghiên cứu thị trường vật tư là phải trả lời được các câu hỏi: Trên cơ sở phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì nên sử dụng loại vật tư nào sẽ đem lại hiệu quả cao nhất? Chất lượng, số lượng loại vật tư đó như thế nào? Mua sắm vật tư ở đâu? Khi nào? Mức giá vật tư trên thị trường là bao nhiêu? Phương thức mua bán và giao nhận như thế nào? Để nghiên cứu thị trường thường phải trải qua 3 bước cơ bản: thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định. Cùng với việc nghiên cứu thị trường thì công tác dự báo thị trường vật tư đối với doanh nghiệp cũng có một vị trí quan trọng. Việc nghiên cứu và dự báo thị trường phải tiến hành đồng thời với cung, cầu, giá cả từ đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp. 11/41
  4. Nội dung của kinh doanh thực phẩm Nội dung của kinh doanh thực phẩm Lập kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp Kế hoạch mua sắm vật tư ( đầu vào cho sản xuất kinh doanh thực phẩm) là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất-kỹ thuật-tài chính của doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng cơ bản. Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp là các bản tính toán nhu cầu cho sản xuât hàng thực phẩm của doanh nghiệp và nguồn hàng rất phức tạp nhưng có tính cụ thể và nghiệp vụ cao. Nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch là bảo đảm vật tư tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng thực phẩm, nó phản ánh được toàn bộ nhu cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho sửa chữa, dự trữ, cho xây dựng cơ bản Đồng thời nó còn phản ánh được các nguồn vật tư và cách tạo nguồn của doanh nghiệp gồm nguồn từ hàng tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp, nguồn mua trên thị trường. Tổ chức mua sắm vật tư Trên cơ sở của kế hoạch mua sắm vật tư và kết quả nghiên cứu thị trường doanh nghiệp lên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện việc đảm bảo vật tư cho sản xuất. Lên đơn hàng là quá trình cụ thể hoá nhu cầu, là việc xác định tất cả các quy cách, chủng loại và thời gian nhận hàng, lập đơn hàng là công việc hết sức quan trọng của quá trình tổ chức mua sắm vật tư, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình mua sắm vật tư và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn tới việc đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần tới hoặc không đủ so với nhu cầu. Để lập được đơn hàng chính xác bộ phận lập đơn hàng phải tính đến các cơ sở như: nhiệm vụ sản xuất, hệ thống định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng tồn kho, kế hoạch tác nghiệp đảm bảo vật tư quý, tháng Nhiệm vụ quan trọng trong công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao. Tổ chức chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp Vận chuyển vật tư hàng hoá về doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo vật tư kịp thời, đầy đủ và đồng bộ cho sản xuất. Công việc này ảnh hưởng trực tiếp tới việc giữ gìn số lượng, chất lượng vật tư hàng hoá, đảm bảo sử dụng có hiệu quả và hạ giá thành sản phẩm. Chuyển đưa vật tư về doanh nghiệp có thể thực hiện bằng hình thức tập trung hoặc phi tập trung tuỳ theo khối lượng vật tư và tình hình cụ thể từng doanh nghiệp. 12/41
  5. Tiếp nhận và bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng Vật tư hàng hoá chuyển về doanh nghiệp trước khi nhập kho phải qua khâu tiếp nhận về số lượng và chất lượng. Mục đích của tiếp nhận là kiểm tra số lượng và chất lượng vật tư nhập kho, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng và đưa hàng xem có bảo đảm số lượng và chất lượng hay không để xác định rõ trách nhiệm của những đơn vị và cá nhân có liên quan đến hàng nhập. Tổ chức cấp phát vật tư trong nội bộ doanh nghiệp Cấp phát vật tư cho các đơn vị tiêu dùng trong doanh nghiệp (phân xưởng, tổ đội sản xuất, nơi làm việc của công nhân) là một khâu công hết sức quan trọng. Tổ chức tốt khâu này sẽ bảo đảm cho sản xuất của doanh nghiệp tiến hành được nhịp nhàng, góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm vật tư trong tiêu dùng sản xuất, nâng cao hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 13/41
  6. Quá trình sản xuất sản phẩm Quá trình sản xuất sản phẩm Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu để tác động vào đối tượng lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hoá của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu đa dạng của con người. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của thị trường và thu về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Để thực hiện được mục tiêu của mình, mỗi doanh nghiệp phải tổ chức tốt các bộ phận cấu thành nhằm thực hiện chức năng cơ bản. Sản xuất là một trong những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho xã hội. Hình thành, phát triển và tổ chức điều hành tốt hoạt động sản xuất là cơ sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển trên thị trường. chỉ có hoạt động sản xuất hay dịch vụ mới là nguồn gôc của mọi sản xuất và dịch vụ được tạo ra trong doanh nghiệp. Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ là cơ sở làm tăng giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế cho nền kinh tế quốc dân tạo cơ sở vật chất thúc đẩy xã hôi phát triển. Quá trình sản xuất được tổ chức và quản lý tốt góp phần tiết kiệm được các nguồn lực cần thiết cho sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ do khâu sản xuất và dịch vụ tạo ra, nếu hoàn thiện được quản trị sản xuất sẽ tạo ra tiềm năng to lớn cho nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 14/41
  7. Tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là thực hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất và phân phối còn một bên là tiêu dùng. Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của khách hàng, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp bao gồm hai loại quá trình liên quan trực tiếp tới sản phẩm: các nghiệp vụ kỹ thuật sản xuất và các nghiệp vụ kinh tế, tổ chức và kế hoạch hoá tiêu thụ. Việc chuẩn bị hàng hoá để xuất bán là nghiệp vụ tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông, các nghiệp vụ sản xuất ở các kho bao gồm: tiếp nhận, phân loại, bao gói, lên nhãn hiệu sản phẩm, xếp hàng ở kho, bảo quản và chuẩn bị đồng bộ hàng để xuất bán và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng của sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện ở các hoạt động dịch vụ. Tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng. Về phương diện xã hội thì nó có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. 15/41
  8. Sơ đồ : Mô hình tiêu thụ sản phẩm Nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời các câu hỏi: sản xuất những sản phẩm gì? sản xuất như thế nào? sản phẩm bán cho ai? Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng tiêu thụ những loại hàng hoá (hoặc nhóm hàng) trên một địa bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường. Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng, giá bán, mạng lưới và hiệu quả của công tác tiêu thụ. Việc nghiên cứu còn giúp doanh nghiệp biết được xu hướng, sự biến đổi nhu cầu của khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của doanh nghiệp, thấy được các biến động của thu nhập và giá cả, từ đó có các biện pháp điều chỉnh cho phù hợp. Khi nghiên cứu thị trường sản phẩm, doanh nghiệp phải giải đáp được các yêu cầu: - Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm của doanh nghiệp? - Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường đó ra sao? - Doanh nghiệp cần phải xử lý những biện pháp gì có liên quan và có thể sử dụng những biện pháp nào để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ? - Những mặt hàng nào, thị trường nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn phù hợp với năng lực và đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp? 16/41
  9. - Với mức giá nào thì khả năng chấp nhận của thị trường là lớn nhất trong từng thời kỳ. - Yêu cầu chủ yếu của thị trường về mẫu mã, bao gói, phương thức thanh toán, phương thức phục vụ. - Tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối sản phẩm. Nghiên cứu cần về một loại sản phẩm là phạm trù phản ánh một bộ phận nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường về sản phẩm đó. Phải giải thích được sự thay đổi của cầu, do những nhân tố nào sự ưu thích, thu nhập và mức sống của người tiêu dùng. Nghiên cứu cung để hiểu rõ về các đối thủ cạnh tranh, xác định được số lượng đối thủ cạnh tranh, phân tích các nhân tố có ý nghĩa đối với các chính sách tiêu thụ, chương trình sản xuất, chính sách giá cả và các hoạt động khác của đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ cần phải chỉ rõ các ưu điểm, nhược điểm của từng kênh tiêu thụ của doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ. Trên cơ sở điều tra nghiên cứu thị trường doanh nghiệp tiến hành lựac họn sản phẩm thích ứng với nhu cầu của thị trường. Đây là nội dung quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động tiêu thụ, vì trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải sản xuất kinh doanh dựa trên cái mà thị trường cần chứ không phải dựa vào cái mà doanh nghiệp sẵn có. Từ những thông tin và xử lý thông tin do thị trường đem lại doanh nghiệp tiến hành lựa chọn sản phẩm thích ứng, thực hiện đơn đặt hàng và tiến hành tổ chức sản xuất, tiêu thụ. Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm Xây dựng kế hoạch tiêu thụ là cơ sở quan trọng đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành nhịp nhàng, liên tục theo kế hoạch đã định. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là căn cứ để xây dựng kế hoạch hậu cần vật tư và các bộ phận khác của kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính doanh nghiệp Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phản ánh được các nội dung cơ bản như: khối lượng tiêu thụ sản phẩm về hiện vật và giá trị có phân theo hình thức tiêu thụ, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu thị trường tiêu thụ. Trong xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp như phương pháp cân đối, phương pháp quan hệ động và phương pháp tỷ lệ cố định. Để xây dựng kế hoạch tiêu thụ cần dựa vào các căn cứ cụ thể: doanh thu bán hàng ở các kỳ trước, các kết quả nghiên cứu thị trường, năng lực sản xuất, chi phí sản xuất kinh doanh tiêu thụ của doanh nghiệp, các hợp đồng đã ký hoặc dự kiến ký. Trong kế hoạch tiêu thụ phải lần lượt lập được các kế hoạch như: kế hoạch bán hàng, marketing, quảng cáo, chi phí cho tiêu thụ, 17/41
  10. Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho khách hàng là hoạt động tiếp tục sản xuất kinh doanh trong khâu lưu thông. Muốn cho quá trình lưu thông hàng hoá được liên tục, không bị gián đoạn thì các doanh nghiệp phải chú trọng đến các nghiệp vụ như: tiếp nhận, phân loại, lên nhãn hiệu sản phẩm, bao gói, sắp xếp hàng hoá ở kho, bảo quản và ghép đồng bộ để xuất bán cho khách hàng. Đối với các hoạt động này thì doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch từ trước, tiếp nhận đầy đủ về số lượng và chất lượng hàng hoá từ các nguồn nhập kho (từ các phân xưởng, tổ đội sản xuất của doanh nghiệp) theo đúng mặt hàng qui cách, chủng loại hàng hoá thông thường, kho hàng hoá của doanh nghiệp đặt gần nơi sản xuất của doanh nghiệp, nếu kho hàng đặt xa nơi sản xuất thì phải tổ chức tốt việc tiếp nhận hàng hoá bảo đảm kịp thời, nhanh chóng, góp phần giải phóng nhanh phương tiện vận tải, bốc xếp, an toàn sản phẩm, tiết kiệm chi phí lưu thông. Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều kênh khác nhau, theo đó các sản phẩm được bán và vận động từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đến tận tay các hộ tiêu dùng cuối cùng. Để hoạt động tiêu thụ có hiệu quả cao cần phải lựa chọn kênh tiêu thụ sản phẩm một cách hợp lý trên cơ sở tính đến các yếu tố như đặc điểm sản phẩm, các điều kiện vận chuyển, bảo quản, sử dụng Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng cuối cùng, có 2 hình thức tiêu thụ trực tiếp và gián tiếp. Kênh tiêu thụ trực tiếp là hình thức doanh nghiệp sản xuất bán thẳng sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua các khâu trung gian. Với hình thức này có thể giảm được chi phí lưu thông, thời gian sản phẩm tới tay người tiêu dùng nhanh hơn, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, hiểu biết rõ nhu cầu của khách hàng và tình hình giá cả từ đó tạo điều kiện thuận lợi để gây uy tín và thanh thế cho doanh nghiệp. Nhưng nó cũng gặp phải nhược điểm là doanh nghiệp phải thường xuyên tiếp xúc với nhiều bạn hàng, phải dành nhiều công sức, thời gian vào quá trình tiêu thụ, nhiều khi làm tốc độ chu chuyển của vốn lưu động chậm hơn 18/41
  11. Sơ đồ: Tiêu thụ trực tiếp Kênh tiêu thụ gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp xuất bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng có qua khâu trung gian bao gồm: người bán buôn, bán lẻ, đại lý . sự tham gia nhiều hay ít của người trung gian trong quá trình tiêu thụ sẽ làm cho kênh tiêu thụ dài hay ngắn khác nhau. Với hình thức tiêu thụ này các doanh nghiệp có thể tiêu thụ được một khối lượng lớn hàng hoá trong thời gian ngắn nhất, từ đó thu hồi vốn nhanh, tiết kiệm chi phí bảo quản hao hụt Tuy nhiên hình thức này làm cho thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, tăng chi phí tiêu thụ và doanh nghiệp khó có thể kiểm soát được các khâu trung gian Sơ đồ : Tiêu thụ gián tiếp Việc áp dụng hình thức tiêu thụ này hay hình thức tiêu thụ khác phần lớn do đặc điểm của sản phẩm quyết định. Mỗi hình thức tiêu thụ sản phẩm có ưu nhược điểm nhất định, nhiệm vụ của phòng kinh doanh là phải lựa chọn hợp lý các hình thức tiêu thụ sản phẩm cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Tổ chức các hoạt động xúc tiến bán hàng Xúc tiến là hoạt động thông tin marketing tới khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp gồm các thông tin: về doanh nghiệp, về sản phẩm, về phương thức phục vụ và những lợi ích mà khách hàng sẽ thu được khi mua sản phẩm của doanh nghiệp, cũng như những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, qua đó để doanh nghiệp tìm ra cách thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Trong hoạt động xúc tiến bán hàng là toàn bộ các hoạt động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội bán hàng trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Xúc tiến bán hàng chứa đựng trong đó các hình thức, cách thức và những biện pháp nhằm đẩy mạnh khả năng bán ra của doanh nghiệp. Xúc tiến bán hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên 19/41
  12. thương trường, nhờ đó quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được đẩy mạnh cả về số lượng và thời gian. Yểm trợ là các hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt hoạt động tiêu thụ ở doanh nghiệp. Những nội dung chủ yếu của hoạt động xúc tiến, yểm trợ bán hàng phải kể đến là: Quảng cáo, chào hàng, khuyến mại, tham gia hội chợ, triển lãm Quảng cáo Quảng cáo là biện pháp truyền bá thông tin của các doanh nghiệp về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Mục đích của quảng cao là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ qua đó thu lợi nhuận. Mục tiêu của quảng cáo: giúp tăng số lượng hàng tiêu thụ trên thị trường truyền thống, mở ra thị trường mới, giới thiệu sản phẩm mới. Mặt khác nó còn giúp xây dựng và củng cố uy tín của sản phẩm (nhãn hiệu), doanh nghiệp. Phương tiện quảng cáo: qua phương tiện thông tin đại chúng báo chí, truyền hình, truyền thanh, quảng cáo ngoài trời (biểu ngữ trên đường, pano- aphich, phương tiện vận tải ), băng đĩa, internet - Quảng cáo trực tiếp: Catalo gửi qua đường bưu điện, phát tờ rơi. - Quảng cáo tại nơi bán hàng: loại quảng cáo này hướng vào loại khách hàng khi họ ở những vị trí gần quầy cửa hàng, thu hút sự chú ý của khách hàng, làm cho khách hàng phấn khích ở mức độ nhất định, tiến về chỗ bán hàng, tìm hiểu sản phẩm từ đó cộng thêm một số tác động của xúc tiến khác thúc đẩy hành vi mua của khách hàng. Yêu cầu của thông điệp quảng cáo: phải có độ biểu cảm; phù hợp với nội dung quảng cáo; ngôn ngữ và hình ảnh phải rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với đại quần chúng; thông tin phải đảm bảo độ tin cậy; dung lượng quảng cáo phải cao Khuyến mại Khuyến mại là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách giành những lợi ích nhất định cho khách hàng. Khuyến mại là hình thức xúc tiến bổ sung cho quảng cáo, thông thường nó được sử dụng cho những hàng hoá mới tung ra thị trường, áp lực cạnh tranh cao đặc biệt là các sản phẩm có đơn giá thấp vừa đem lại doanh thu cao. Thông qua các kỹ thuật khuyến mại, doanh nghiệp sẽ thu hút thêm những người dùng thử mới, kích thích những người mua trung thành kể cả những người thỉnh thoảng mới mua. Các hình thức khuyến mại: 20/41