Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm xã hội

Bản chất
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà
sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động
phát triển đến một mức độ nào đó . Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và
hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá
trạng thái kinh tế của mỗi nước .
- Mối quan hệ giữa cái bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn
ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXHvà bên được BHXH. Bên tham gia
BHXHchỉ có thể là nguười lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động.
Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXHthông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà
nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có
thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn trái với chủ quan của con người như : ốm
đau, tai nạnlao động, bệnh nghề nghiệp...Hoặc cũng có thể lã trường hợp xảy ra không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản v..v... Đồng thời những biến cố đó có thể
diễn ra cả trong và ngoài lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi
ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại. Nguồn
quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ
phía Nhà nước. 
pdf 28 trang hoanghoa 09/11/2022 3040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_ly_luan_chung_ve_bao_hiem_xa_hoi.pdf

Nội dung text: Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm xã hội

  1. - Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần nhàn rỗi ) t Q BH = ĐLĐ + ĐSDLĐ+ ĐNN + TĐT + TTT +TK T Trong đó : Q BH : Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm. ĐLĐ : Đóng góp của người lao động ĐSDLĐ : Đóng góp của chủ sở hữu lao động ĐNN : Đóng góp và hỗ trợ của nhà nước TĐT : Thu từ hoạt động đầu tư TTT : Thu từ viện trợ TK : Thu khác Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao độngmà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ– thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình,vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lí mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ dựa để đảm báo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. 9/26
  2. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sủ dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhânvà quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí Quản lí BHXHv v Nước ta, từ năm 1962 đến năm 19987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ hai nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, Chính phủ đã ban hành rộng rãi Nghị định 43/CP ngày 22/ 06/ 1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12 /CP ngày 26/ 01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng góp 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ồm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp . - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. - Các nguồn khác. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: - Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng. - Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó mới xác định mức hưởng. 10/26
  3. - Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng. - Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kĩ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan cả đến người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH được xác định theo công thức: P = f1+f2+f3 Trong đó : P : Phí BHXH f1: phí thuần túy trợ cấp BHXH f2 :phí dự phòng f3: phí quản lí Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn ( thường là một năm ) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với chế độ BHXH dài hạn như : hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v v quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kì dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH bao gồm 3 bộ phận: phí thuần, phí quản lí và phí dự trữ. Như vậy quỹ BHXH được sử dụng cho 3 mục đích: chi trả, cho các chế độ BHXH cho việc quản lí hệ thống BHXH và chi trích lập quỹ dự phòng cho những trường hợp tổn thất lớn. C Q BH = CTC + CQL + CDP+ CĐT+ CK Trong đó: C Q BH : tổng chi BHXH 11/26
  4. CTC : chi cho bộ máy quản lí CDP : chi lập quỹ dự phòng CĐT : chi đầu tư CK : chi khác Khoản chi thứ hai trong BHXH là chi cho việc quản lí nghiệp vụ BHXH. Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi bảo hiểm xã hội nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng tăng. Bởi vì các chế độ BHXH ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ cán bộ phục vụ BHXH ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng tăng. Vì vậy, chi phí cho việc xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên. Mục đích thứ ba của quỹ BHXH là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích luỹ trong quá trình sử dụng bảo hiểm xã hội. Định kì hàng tháng (quý, năm) cơ quan bảo hiểm xã hội tiến hành giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội hoặc lúc đồng tiền mất giá. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH 12/26
  5. Trách nhiệm và quyền hạn các bên tham gia bảo hiểm xã hội Theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế thì quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH như sau: a. Người sử dụng lao động. * Trách nhiệm: - Đóng bảo hiểm xã hội đúng quy định. - Trích tiền lương của người lao động để đóng BHXH đúng quy định. - Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan khi có kiểm tra, thanh tra về BHXH của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. * Quyền hạn: - Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng với quy định của Điều lệ của BHXH . 13/26
  6. - Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cơ quan BHXH có hành vi vi phạm Điều lệ bảo hiểm xã hội. b. Người lao động * Trách nhiệm: - Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. - Thực hiện đúng các quy định về việc lập hồ sơ để hưởng chế độ BHXH. - Bảo quản, sử dụng sổ BHXH và hồ sơ về BHXH theo đúng quy định. * Quyền hạn: - Được nhận sổ bảo hiểm xã hội. - Được nhận lương hưu hoặc trợ cấp kịp thời, đầy đủ, thuận tiện khi có đủ điều kiện hưởng BHXH theo quy định tại Điều lệ BHXH. - Khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động hoặc tổ chức BHXH có hành vi vi phạm Điều lệ BHXH. c. Cơ quan bảo hiểm xã hội * Trách nhiệm: - Tổ chức thu, quản lí, sử dụng quỹ BHXH đúng quy định. - Thực hiện các chế độ BHXH đúng quy định tại Điều lệ BHXH. - Tổ chức việc trả lương hưu và trợ cấp BHXH kịp thời, đầy đủ, thuận tiện. - Giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về bảo hiểm xã hội. - Thông báo định kì hàng năm về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động và sử dụng lao động. * Quyền hạn: - Trình Thủ Tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định để quản lí việc thu, chi BHXH và để xác nhận đối tượng được hưởng các chế độ BHXH quy định tại Điều lệ bảo hiểm xã hội. 14/26
  7. -Tổ chức phương thức quản lí quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội có hiệu quả. - Tuyên truyền, vận động để mọi người tham gia thực hiện BHXH. -Từ chối việc chi trả chế độ BHXH cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ tài liệu. Tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội Theo nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lí Nhà nước của Bộ lao động- thương binh xã hội và các cơ quan quản lí Nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn. Mô hình cơ cấu tổ chức BHXH việt nam. Hội đồng quản lí BHXH Việt Nam là cơ quan quản lí cao nhất của BHXH Việt Nam. 15/26
  8. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, gồm có: ở Trương ương : Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương( gọi chung là tỉnh) là BHXH tỉnh trực thuộc BHXH Việt Nam. Ở các quận, huyện, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh( gọi chung là huyện) là BHXH huyện trực thuộc BHXH tỉnh. Bảo hiểm xã hội Việt Nam do Tổng giám đốc quản lí và điều hành thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau: - Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu bảo hiểm xã hội theo quy định của Bộ luật lao động, Điều lệ BHXH và các quy định của Chính phủ. - Quản lí quỹ BHXH và tổ chức việc chi trả BHXH cho người tham gia BHXH được đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn. - Được quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá, làm giả hồ sơ, tài liệu để được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, đồng thời ra văn bản thông báo việc từ chối chi trả đó cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật. - Bồi thường mọi khoản thu chi sai các quy định của Nhà nước về BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH và chịu trách nhiệm trước pháp luật. - Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng cường quỹ BHXH theo quy định của Chính phủ. - Trình thủ tướng Chính phủ quyết định về mức chi phí quản lí, định mức lệ phí thu, chi quỹ BHXH và các quy định khác có liên quan đến hoạt động BHXH và tổ chức thực hiện các quy định nói trên. - Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn. - Lưu giữ hồ sơ, cấp và quản lí sổ BHXH. - Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán; hướng dẫn nghiệp vụ, thu, chi bảo hiểm xã hội và kiểm tra việc thực hiện; tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích các chế độ, chính sách về BHXH. 16/26
  9. - Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi BHXH. - Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH. - Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo quy định của Chính phủ. - Quản lí tổ chức, viên chức, tài chính, cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam theo quy định của Nhà nước. - Thực hiện việc báo cáo định kì về thu, chi và các hoạt động về BHXH cho Bộ lao động - thương binh và xã hội và Bộ tài chính. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quan hệ trực tiếp với cá cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở Trung ương và địa phương, với các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến BHXH theo quy định của Bộ Luật lao động, Điều lệ BHXH. - Thực hiện các nhiệm vụ khác được Thủ Tướng Chính phủ giao cho. Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng giám đốc BHXH Việt Nam như sau: - Ban quản lí chế độ chính sách BHXH - Ban quản lí thu BHXH. - Ban quản lí chi BHXH. - Ban kiểm tra – pháp chế. - Ban kế hoạch—tài chính. - Ban tổ chức cán bộ. - Văn phòng. - Trung tâm thông tin- khoa học. Nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của các đơn vị nói trên do Tổng giám đốc quy định. Việc bổ nhiệm, miễm nhiệm chức vụ lãnh đạo của các tổ chức nói trên do Tổng giám đốc quyết định. 17/26
  10. Bảo hiểm xã hội tỉnh thực hiện các nhiệm vụ về BHXH trên địa bàn tỉnh theo quy định của Tổng giám đốc bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội tỉnh do một giám đốc quản lí và điều hành. Giúp việc giám đốc có 1 – 2 phó giám đốc. Giám đốc, phó giám đốc BHXH tỉnh do Tổng giám đốc BHXH Việt Nam bổ nhiệm và miễm nhiệm. Nhiệm vụ, quyền hạn, biên chế các phòng chuyên môn nghiệp vụ nói trên do Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quyết định. Bảo hiểm xã hội huyện có nhiệm vụ tiếp nhận đăng ký hưởng chế độ bảo hiểm xã hội do BHXH tỉnh chuyển đến; thực hiện việc đôn đốc, theo dõi nộp BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn; tổ chức mạng lưới hoặc trực tiếp chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng trên địa bàn huyện. Bảo hiểm xã hội huyện do một giám đốc quản lí và điều hành. Các huyện có khối lượng công việc nhiều có thể có phó giám đốc giúp việc do giám đốc BHXH huyện bổ nhiệm và miễn nhiệm theo phân cấp của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Bảo hiểm xã hội huyện không có cơ cấu tổ chức phòng. Biên chế của BHXH huyện do giám đốc BHXH tỉnh quyết định trong phạm vi tổng biên chế của BHXH tỉnh được Tổng giám đốc phân bổ. Giám đốc BHXH huyện quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng viên chức thuộc quyền quản lí. Việc thành lập BHXH huyện do Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định căn cứ vào khối lượng công việc, số lượng người và đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn. Tại những nơi chưa có đủ điều kiện thành lập BHXH huyện thì giám đốc BHXH Tỉnh cử người đại diện tại huyện để thực hiện việc chi trả và đôn đốc theo dõi việc thu chi, nộp BHXH trên địa bàn. 18/26
  11. Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội Trên thế giới Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỉ XIII ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp . Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau. ở Anh năm 1973 đã thành lập hội “bằng hữu” để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp. Năm 1883, nước Phổ ( Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc ( 10/12/1948) đã nghi: “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 4/6/1952, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho người lao động và gia đình họ. Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau: - Chăm sóc y tế - Trợ cấp ốm đau - Trợ cấp thất nghiệp - Trợ cấp tuổi già - Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp - Trợ cấp gia đình - Trợ cấp thai sản - Trợ cấp khi tàn phế - Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) 19/26
  12. Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng, nguồn hình thành quỹ giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp. Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và thứ 6 ( trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình). Tại Việt Nam Bảo hiểm xã hội có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Sau cách mạng tháng 8/1945 Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà -nay là nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí. Các chế độ này được thực hiện đối với những người làm việc trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ương. Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao động xã hội được hưởng quyền lợi BHXH. Sau khi hoà bình lập lại, ngày 27/12/ 1961 Nhà nước ban hành Nghị định 128/CP của Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức” và được thực hiện từ ngày 1/1/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện BHXH đối với công nhân viên chức, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó ngày 18/9/1985 Chính phủ (lúc đó là Hội Đồng Bộ Trưởng) đã ban hành Nghị định 236/ HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động. Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và hưởng BHXH. Tuy nhiên chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế không phù hợp với cơ chế mới. Vì vậy, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế , đánh dấu một bước đổi mới của BHXH Việt Nam. Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/1994, điều lệ tạm thời về BHXH theo Nghị định 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1995 cho các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, bảo hiểm xã hội Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng như tổ chức quản lý. Các văn bản trên đã quy định cụ thể các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng qua các giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước. 20/26
  13. Về hệ thống tổ chức quản lí: - Trước năm 1995 do hai nghành quản lí. Ngành Lao động Thương binh Xã hội quản lí việc thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất, còn liên đoàn lao động Việt Nam quản lí chi trả chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ ngơi. Từ năm 1995 đến nay Chính phủ đã cho phép sát nhập bộ phận làm công tác BHXH ở hai ngành lại thành tổ chức mới đó là BHXH Việt Nam, là cơ quan trực thuộc Chính phủ có hệ thống dọc ở cấp tỉnh và huyện ở các địa phương. Về nguồn tài chính hình thành quỹ BHXH chia làm hai giai đoạn: - Thời kì 1962- 1993: trong giai đoạn này, quỹ BHXH được hính thành từ nguồn thu tiền đóng BHXH với quy định chỉ có người sử dụng lao động đóng và tỉ lệ đóng là 4,7% quỹ lương, trong đó :1% do ngành lao động Thương binh xã hội và Bộ tài chính quản lí để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất; 3,7% do Tổng Liên Đoàn Lao động quản lí để chi trả các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Đén năm 1987 được nâng lên 15%, trong đó 8% do nghành lao động TBXH quản lí, 2% để lại đơn vị để trợ cấp khó khăn đột xuất, 5% do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lí. Đặc điểm nổi bật là trước năm 1987 tỷ lệ đóng góp thấp, số người hưởng chế độ BHXH ít song tỷ trọng ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho mục tiêu này lớn. Sau năm 1987 tỷ lệ này được nâng lên song số người hưởng tăng lên, đặc biệt từ năm 1990 với việc thực hiện các Quyết định 176/ HĐBT và 111/CP của Chính phủ về giảm biên chế khu vực nhà nước nên số người hưởng BHXH tăng đòi hỏi ngân sách Nhà nước phải chi bù rất lớn. Thời kì 1993 đến nay được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định 43/CP ngày 1/4/ 1993 của Chính phủ. Theo Nghị định này mức thu quỹ BHXH được nâng lên 20% trong đó một sự thay đổi căn bản đó là: người lao động phải đóng 5%, 15% còn lại do người sử dụng lao động đóng. Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính tập trung tương đối độc lập với ngân sách Nhà nước. Ngoài ra quỹ BHXH còn được bổ sung từ việc sử dụng tiền nhàn rỗi đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời. Khoản đầu tư này đang thấp và sẽ được tăng dần trong các năm tiếp theo. Tổng các nguồn thu BHXH tăng nhanh do cả hai nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ và tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Đó là kết quả hoạt động của việc thực hiện điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP theo tổ chức mới. Việc hình thành một hệ thống BHXH tập trung đảm bảo thu phí BHXH kịp thời và đầy đủ hơn làm tăng khá nhanh quỹ BHXH. Nguồn từ ngân sách Nhà nước để chi trả cho những người hưởng BHXH trước tháng 1 năm 1995. Nhìn chung sự hình thành quỹ BHXH đã dần dần đi vào ổn định, mang tính quy luật chung. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân ngân sách nhà nước phải hỗ trợ kéo dài nhiều năm, nhưng xu hướng giảm dần, còn chi BHXH từ quỹ (chi cho những người về nghỉ 21/26