Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ

Tác dụng của bảo hiểm nhân thọ:
Bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều tác dụng trong đời sống kinh tế xã hội. Chính những tác
dụng này đã giúp nó tồn tại và đạt được những thành công như ngày nay.
Đối với người tham gia bảo hiểm:
Bảo hiểm nhân thọ đã góp phần ổn định cuộc sống của dân cư, bảo vệ cho các cá nhân
và gia đình họ chống lại sự bất ổn định về tài chính gây ra bởi các bất hạnh như: tử vong,
thương tật, đau ốm, mất giảm thu nhập hoặc người trụ cột trong gia đình qua đời để lại
một gánh nặng nghĩa vụ chưa kịp hoàn thành ( trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, bảo
đảm học hành cho con cái, các khoản vay thế chấp...). Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ
là sự chia sẻ các tổn thất giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm thay thế sự bất ổn
bằng sự ổn định về tài chính trong các trường hợp có sự cố bảo hiểm xảy ra. Trường hợp
rủi ro không xảy ra, người tham gia bảo hiểm vẫn được hưởng các quyền lợi từ số phí
đã đóng.
Bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần nâng cao sức khoẻ cho nhân dân thông qua việc kiểm
tra sức khoẻ miễn phí tại các trung tâm y tế do công ty bảo hiểm chỉ định trước khi ký
kết hợp đồng. Mặt khác, khi người được bảo hiểm gặp rủi ro như ốm đau, phẫu thuật tàn
tật... công ty bảo hiểm cũng chi trả một số tiền để họ phục hồi sức khoẻ nhanh chóng. Ở
Pháp năm 1995, chi phí chăm sóc y tế và thuốc men đạt 862 tỷ F (12,4 tỷ USD) trong
đó các công ty bảo hiểm tham gia thanh toán 31%. 
pdf 33 trang hoanghoa 09/11/2022 2280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_ly_luan_chung_ve_bao_hiem_nhan_tho.pdf

Nội dung text: Tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ

  1. toàn cần thiết cái mà làm cho người bảo hiểm khó có thể khai thác được do phạm vi bảo đảm rộng và phí cao. Thứ ba, mối quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm được ghi nhận như là một sự "nghi ngờ kép". - Về phía người được bảo hiểm: họ nhìn nhận người bảo hiểm đồng thời là hai người - người bảo trợ và người thu thuế. Người được bảo hiểm tìm kiếm và thấy ở người bảo hiểm như là một nhà tư vấn và đưa ra những giải pháp để giải quyết những vấn đề lớn như: tương lai của con cái họ, thu nhập của gia đình hay thu nhập của chính họ khi về hưu. Nhưng đồng thời, người được bảo hiểm lại coi người bảo hiểm như là người thu thuế. Bởi lẽ xuất phát từ khái niệm: "hiệu quả xê dịch" mà người tiêu dùng cảm thấy việc nộp phí trong thời gian dài không đem lại hiệu quả gì nếu không có sự kiện bảo hiểm xẩy ra. - Về phía nhà bảo hiểm: ở một khía cạnh nào đó, họ luôn có thái độ ngờ vực khách hàng của mình. Khi bán bảo hiểm, họ luôn nghi ngờ rằng người tham gia có khai đúng tình trạng sức khỏe của anh ta hay không? Khi thiệt hại xảy ra, liệu người bị hại có khai báo đúng sự thực hay không? Chính thái độ này đã dẫn đến việc cư xử với khách hàng bị thiệt hại như một "công an", trước tiên là trấn áp. 9/31
  2. Đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Trước hết ta phân biệt những điểm khác biệt giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ 1. Phạm Tài sảnCon người Trách nhiệm dân Con người vi bảo sự hiểm 2. Thời hạn Dài hạn 5-10 năm hoặc suốt đời Thường là một năm bảo hiểm 3.Phí bảo hiểm a. - Thời gian tham gia- Số tiền bảo Nhân - Xác suất rủi ro- Số tiền bảo hiểm- hiểm- Tỷ lệ lãi kỹ thuật- Xác suất tử tố ảnh Chế độ bảo hiểm vong hưởng b.Số lần Phí đóng theo tháng, quý, 6 tháng Thường đóng phí một lần sau khi ký đóng hay 1 năm hợp đồng phí 4. Quyền Chi trả tiền bảo hiểm trong những Chỉ được bồi thường tổn thất trong lợi trường hợp:- Chết- Thương tật toàn giới hạn hợp đồng khi có tổn thất xảy bảo bộ vĩnh viễn- Hết hạn hợp đồng ra. hiểm Chỉ mang tính rủi ro.Chỉ một số ít 5. Vừa mang tính chất rủi ro vừa mang người được nhận số tiền bảo hiểm khi Tính tính tiết kiệm. Tất cả mọi người tham gặp rủi ro thuộc trách nhiệm bảo chất gia đều được nhận số tiền bảo hiểm hiểm. 10/31
  3. Qua bảng so sánh giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ trên, ta thấy bảo hiểm nhân thọ có một số đặc trưng sau: Thứ nhất: có sự phức tạp trong các mối quan hệ giữa người ký, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ. Các loại bảo hiểm khác ngoài bảo hiểm nhân thọ đều đề phòng các hậu quả của một sự cố không lường trước. Người ta cũng biết được ai là người được hưởng quyền lợi của hợp đồng, chẳng hạn là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của sự cố. Đối với bảo hiểm nhân thọ, trong trường hợp tử vong, người được hưởng quyền bảo hiểm không phải là nạn nhân của sự cố. Người được bảo hiểm chết, người được hưởng là người có mối quan hệ thân thuộc với người được bảo hiểm. Người ta thấy rằng điều này đã làm hạn chế đến sự tự do của người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm không phải lúc nào cũng có thể tự do thay đổi người được thừa hưởng vì một số người khác cũng cũng có thể được thừa hưởng từ người này. Trường hợp này có thể xảy ra đối với bảo hiểm trong trường hợp sống nhưng rất hiếm. Trong bảo hiểm nhân thọ, các mối quan hệ giữa người ký, người được bảo hiểm và người được hưởng rất phức tạp và mang tính nguyên tắc hơn rất nhiều so với các loại hình bảo hiểm khác. Thứ hai, bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích. Trong khi các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ có một mục đích là bồi thường cho các hậu quả của một sự cố tiêu cực, không lường trước thì bảo hiểm nhân thọ lại có nhiều mục đích khác nhau: tạo lập một quỹ dự phòng cho tương lai để con cái học tập hay lập nghiệp, lập ra một quỹ hưu trí cho bản thân khi về già, để lại một khoản tiền cho người thân khi tử vong, dành khoản tiền để chi tiêu cho một mục đích trong tương lai. Thứ ba, trong bảo hiểm con người nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, hầu hết các trường hợp không áp dụng nguyên tắc bồi thường mà áp dụng nguyên tắc khoán. Bởi lẽ: + Trong trường hợp tử vong, nhà bảo hiểm sẽ trả số tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết. Nhưng không thể xác định được số tiền này một cách hoàn toàn khách quan vì khái niệm giá cả không thể áp dụng cho con người được. Tính mạng của con người là vô giá. + Một người được hưởng bảo hiểm muốn gia đình hay người thân của anh ta hưởng một khoản tiền nhất định nào đó tuỳ thuộc vào thu nhập hoàn cảnh gia đình của mình Anh ta có quyền ấn định khoản tiền bồi thường vào thời điểm ký hợp đồng với nhà bảo hiểm. Như vậy bảo hiểm trong trường hợp tử vong không nhằm vào bồi thường một thiệt hại. Hơn nữa, ttrong nhiều loại hình bảo hiểm con người, biến cố dẫn đến nghĩa vụ của người bảo hiểm không có bản chất thiệt hại. Do vậy khái niệm thiệt hại không thể sử dụng trong bảo hiểm con người. 11/31
  4. Nhìn chung, bảo hiểm con người dẫn đến các khoản trợ cấp khoán mà số tiền được ấn định trước và tách biệt với khái niệm bồi thường. Đó là: Nguyên tắc khoán được áp dụng trong hầu hết các loại hình bảo hiểm con người. Loại trừ trường hợp hoàn trả các khoản chi phí y tế, bị bệnh hoặc tai nạn, bảo hiểm ở đây mang tính chất bồi thường vì nhà bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm giá của sự chăm sóc thuộc trách nhiệm của anh ta. Thứ tư, trong bảo hiểm nhân thọ không có sự thế quyền. Cùng một lúc, khách hàng có thể tham gia nhiều loại hình bảo hiểm con người và nếu có xảy ra sự cố nào đó thuộc phạm vi bảo hiểm của nhiều hợp đồng thì họ được nhận tất cả các khoản bồi thường từ các hợp đồng khác nhau. Người được hưởng quyền lợi từ bảo hiểm con người có thể đồng thời nhận được các khoản bồi thường từ các hợp đồng mà họ tham gia và khoản bồi thường của người gây ra thiệt hại. Trong trường hợp này, không có sự khiếu nại của nhà bảo hiểm (nhà bảo hiểm bồi thường cho các hợp đồng do người bị tai nạn tham gia) đối với người thứ ba (người gây ra thiệt hại) và nhà bảo hiểm của anh ta. Duy nhất trong bảo hiểm nhân thọ cho phép đảm bảo cùng một lúc hai sự cố đối lập nhau là "tử vong và sống". Thứ năm, trong bảo hiểm nhân thọ không áp dụng nguyên tắc đóng góp. Nguyên tắc này chỉ áp dụng trong bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm thiệt hại. Theo nguyên tắc đóng góp thì công ty bảo hiểm khi đã đền bù cho người được bảo hiểm có quyền gọi các công ty bảo hiểm khác chia sẻ tổn thất trong trường hợp: + Có hai hợp đồng bồi thường có hiệu lực trở lên + Các hợp đồng đều bảo hiểm cho các quyền lợi chung + Các hợp đồng đều bảo hiểm cho các rủi ro chung Nhưng bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm con người nên người tham gia bảo hiểm có quyền nhận quyền lợi của mọi hợp đồng mà họ tham gia. Hơn nữa, con người là vô giá nên không áp dụng nguyên tắc này. Như vậy, nếu bảo hiểm nhân thọ có những điểm tương đồng với các loại hình bảo hiểm con người thì nó lại có những khác biệt với các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác. 12/31
  5. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ Các loại hình bảo hiểm nhân thọ Ở các nước trên thế giới, hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ đang bán 4 loại hình sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính: - Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn. - Bảo hiểm nhân thọ trọn đời. - Bảo hiểm trợ cấp hưu trí. - Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. * Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn: Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, đúng như tên gọi của nó nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm trong một thời gian nhất định gọi là thời hạn bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm chỉ được thanh toán trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm sống qua thời hạn bảo hiểm sẽ không được thanh toán bất cứ khoản gì. Độ dài của thời hạn bảo hiểm rất khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay thời hạn bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm sinh mạng có thời hạn có khi dưới một năm. * Bảo hiểm nhân thọ trọn đời: Đây là loại hình có thời hạn bảo hiểm dài hạn và số tiền bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm chết hay sống đến 99 tuổi tuỳ thuộc vào sự kiện nào đến trước. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời kết hợp yếu tố tiết kiệm với bảo hiểm. Trong khi bảo hiểm sinh mạng có thời hạn chỉ bao gồm yếu tố rủi ro và không trả thêm bất cứ quyền lợi nào. * Bảo hiểm cấp hưu trí: Là loại hình mà phí bảo hiểm được đóng ngay một lần hay định kỳ. Sau đó, công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm từ khi người được baỏ hiểm về hưu cho đến chết. Người ta thường kết hợp dạng bảo hiểm trợ cấp hưu trí với bảo hiểm hưu trí. Khi về hưu, người được bảo hiểm nhận số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống khi về hưu cho đến khi chết. 13/31
  6. * Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đảm bảo rằng số tiền bảo hiểm được trả mà không quan tâm đến việc người được bảo hiểm có bị chết trong thời hạn bảo hiểm hay không với điều kiện người được bảo hiểm phải đóng phí theo quy định. Mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đều quy định ngày hết hạn bảo hiểm. Vào ngày đó, công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm nếu anh ta còn sống. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng thì số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho ngươì được hưởng lợi vào ngày người được bảo hiểm bị chết. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp trả số tiền bảo hiểm ấn định dù người được bảo hiểm vẫn còn sống đến ngày đáo hạn của hợp đồng hoặc chết trước khi hết hạn hợp đồng. Phí bảo hiểm cũng không đổi trong suốt thời hạn hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thể hiện rõ sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm. Dựa trên 4 sản phẩm cơ bản này, các Công ty bảo hiểm nhân thọ khác nhau thiết kế ra các sản phẩm đặc thù riêng của mình.Chẳng hạn: Bảo Việt nhân thọ có các sản phẩm như: bảo hiểm và tiết kiệm thời hạn 5 năm (NA4/ 1998), bảo hiểm và tiết kiệm thời hạn 10 năm (NA5/1998), an sinh giáo dục (NA6/ 1998), bảo hiểm trợ cấp hưu trí (ND1/1999) Prudential có các sản phẩm: phú an khang, phú tích luỹ 14/31
  7. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một văn bản ghi nhận sự cam kết giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi xảy ra những sự kiện quy định trước: thương tật, chết, hết hạn hợp đồng, sống đến một độ tuổi nhất định, còn người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng phí đầy đủ và đúng hạn. Theo quy định thì đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là tất cả những người trong độ tuổi từ 1 đến 60. Với đối tượng trên thì người tham gia bảo hiểm có thể tham gia bất cứ loại hình nào theo nguyện vọng và yêu cầu của mình. Khi tham gia bảo hiểm thì người tham gia phải viết giấy yêu cầu bảo hiểm và đây là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm. Trong giấy yêu cầu bảo hiểm người tham gia phải kê khai đầy đủ: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật Giấy yêu cầu bảo hiểm là căn cứ để công ty bảo hiểm có chấp nhận bảo hiểm hay không. Để tìm hiểu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì chúng ta tìm hiểu một số các vấn đề liên quan sau: * Người được bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm: - Người được bảo hiểm: là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được bảo hiểm theo điều khoản của hợp đồng và có tên trong giấy yêu cầu bảo hiểm, phụ lục của hợp đồng bảo hiểm. - Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: là người được nhận số tiền bảo hiểm hoặc các khoản trợ cấp khác do công ty bảo hiểm thanh toán. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thông thường là người được bảo hiểm, những người thân thiết, người do người được bảo hiểm chỉ định, người thừa kế hợp pháp của người được bảo hiểm. * Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: Hiệu lực của hợp đồng này được tính từ ngày nộp phí đầu tiên và phải được ghi vào hợp đồng. * Thương tật toàn bộ vĩnh viễn và tai nạn: - Tai nạn là bất kỳ một thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh bất ngờ từ bên ngoài tác động lên người được bảo hiểm. 15/31
  8. Chính vì vậy, một loạt sự cố sau không thuộc khái niệm này: ngộ độc thức ăn, trúng gió bất ngờ, viêm nhiễm do vi rút - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn là trường hợp mà người được bảo hiểm bị mất hoàn toàn và không thể phục hồi chức năng của: + Hai tay; hoặc + Hai chân; hoặc + Hai mắt; hoặc + Một tay và một chân; hoặc + Một tay và một mắt; hoặc + Một chân và một mắt. Những trường hợp sau không thuộc phạm vi của thương tật toàn bộ vĩnh viễn và không phải là nguyên nhân gây ra thương tật toàn bộ vĩnh viễn: + Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm. + Ảnh hưởng của rượu, bia, ma túy. + Hành động tội phạm của người được bảo hiểm. + Chiến tranh, nội chiến, nổi loạn, bạo động. * Số tiền bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm đăng ký, lựa chọn và cũng là số tiền mà công ty bảo hiểm phải thanh toán cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi có sự cố xảy ra đối với người được bảo hiểm. Tuy vậy trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có hai khái niệm liên quan đến số tiền bảo hiểm đó là: Một là: số tiền bảo hiểm giảm. Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đến một khoảng thời gian nào đó theo quy định của mỗi công ty bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể cùng đóng phí và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực với số tiền bảo hiểm mới nhỏ hơn số tiền tham gia bảo hiểm ban đầu. Số tiền bảo hiểm này gọi là số tiền bảo hiểm giảm. 16/31
  9. Hai là: giá trị giả ước: là số tiền mà người được bảo hiểm được nhận khi có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn hợp đồng. * Tuổi: Tuổi của người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm nói chung trong bảo hiểm nhân thọ là tuổi tính theo ngày sinh nhật ngay sau ngày được nhận bảo hiểm và là một trong những điều kiện cơ bản để tính phí bảo hiểm. Cơ sở để tính tuổi là giấy khai sinh, chứng minh thư hay sổ hộ khẩu. Trường hợp công ty bảo hiểm phát hiện khai nhầm tuổi thì sẽ xử lý như sau: Thứ nhất, nếu tuổi thật nhiều hơn tuổi đã khai nhưng tính tại thời điểm bắt đầu được nhận bảo hiểm người được bảo hiểm vẫn ở trong độ tuổi được nhận bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ tính lại số tiền bảo hiểm và giữ nguyên mức phí bảo hiểm, lúc đó giá trị của số tiền bảo hiểm sẽ bị giảm đi. Nếu tại thời điểm bắt đầu được nhận bảo hiểm người được bảo hiểm đã ở ngoài độ tuổi nhận bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm bị huỷ bỏ và công ty bảo hiểm chỉ hoàn lại cho người tham gia bảo hiểm một tỷ lệ phí nhất định đã nộp. Thứ hai, là trường hợp tuổi thật ít hơn tuổi đã khai. Như vậy, người tham gia bảo hiểm đã nộp phí cao hơn mức phí tính theo tuổi đúng. Lúc đó, công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại số phí thừa đã nộp và giữ nguyên mức số tiền bảo hiểm. Mức phí định kỳ sẽ nộp trong những lần sau được tính lại theo tuổi đúng. * Phí bảo hiểm: Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ thanh toán cho công ty bảo hiểm để thực hiện cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm nhân thọ có thể nộp theo tháng, quý, năm. Tuy vậy, khi xác định phí bảo hiểm theo quý hoặc theo năm, công ty bảo hiểm nào cũng phải căn cứ vào phí bảo hiểm theo tháng. Đương nhiên phí quý, năm thì các công ty bảo hiểm đều nhân với hệ số nhất định theo chiều hướng giảm dần. Phí bảo hiểm phụ thuộc chủ yếu vào ba yếu tố sau: + Số tiền bảo hiểm. + Độ tuổi của người tham gia hay người được bảo hiểm. + Thời hạn của hợp đồng bảo hiểm. * Thủ tục trả tiền bảo hiểm: 17/31
  10. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra theo quy định của hợp đồng, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm phải thông báo cho công ty bảo hiểm biết về tình trạng của nạn nhân và địa chỉ của họ, sau đó hoàn tất hồ sơ. Cụ thể: - Trường hợp người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm bị chết thì hồ sơ gồm: + Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm. + Hợp đồng bảo hiểm gốc. + Giấy chứng tử. - Trường hợp người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn: + Giấy yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm. + Hợp đồng bảo hiểm gốc. + Biên bản tai nạn có xác nhận của công an hay cơ quan người tham gia bảo hiểm làm việc hoặc địa phương nơi xảy ra tai nạn. + Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm. - Trường hợp hợp đồng đáo hạn: chỉ cần hợp đồng bảo hiểm gốc. Nếu người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm có một khiếu nại về một vấn đề nào đó liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì phải báo trước và giải quyết bằng văn bản. * Quyền lợi và trách nhiệm của người tham gia hay người được bảo hiểm: Về quyền lợi: tuỳ theo loại hình bảo hiểm mà được hưởng những quyền lợi khác nhau. những quyền lợi này được pháp luật bảo hộ và công ty bảo hiểm phải công bố công khai. Về trách nhiệm: người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm phải có 3 trách nhiệm khi tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - Phải kê khai chính xác đầy đủ tất cả thông tin trên giấy yêu cầu bảo hiểm. - Phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn. - Duy trì thường xuyên những mối liên hệ trên cơ sở luật pháp với các công ty bảo hiểm. 18/31
  11. Nghiên cứu thị trường bảo hiểm Nghiên cứu thị trường bảo hiểm Khái niệm thị trường bảo hiểm rất phức tạp và có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Theo quan điểm cổ điển: thị trường bảo hiểm là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một sản phẩm bảo hiểm. Trong hoạt động Marketing, các doanh nghiệp bảo hiểm không quan tâm đến thị trường nói chung mà hoạt động của họ gắn liền với một sản phẩm cụ thể. Theo quan điểm của Ph.Kotler thì thị trường bảo hiểm bao gồm toàn bộ khách hàng hiện tại và khách hàng tương lai của một loại sản phẩm bảo hiểm. Quan điểm thị trườnglà khách hàng đã mở ra khả năng khai thác thị trường rộng lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động của họ không chỉ diễn ra ở những địa điểm cố định mà có thể mở rộng ở bất kỳ nơi nào có khách hàng bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu.Song để xác định được thị trường mục tiêu và tương lai phát triển thị trường sản phẩm, các doanh nghiệp bảo hiểm thường sử dụng cách phân loại thị trường theo khả năng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội. Nghiên cứ thị trường là một trong những hoạt động Marketing. Nói một cách khái quát, nghiên cứu thị trường bảo hiểm là quá trình thu thập và xử lý một cách có hệ thống và toàn diện các thông tin về thị trường. Nhờ có hoạt động này mà các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện được phương châm hành động Marketing của mình là: "Chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn". Một trong những nhiệm vụ chính của nhà tiếp thị bảo hiểm trong nghiên cứu thị trường là định lượng được nhu cầu thị trường hiện tại và tương lai của nó. Bỏi vì trên thị trường nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm rất phong phú và đa dạng. Nó không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Chính sự phong phú và đa dạng của người tiêu thụ quyết định tính phong phú và đa dạng của nhu cầu tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm trên thị trường. Để xác định được nhu cầu thị trường của sản phảm bảo hiểm, nhà nghiên cứu thị trường sử dụng hai nguồn thông tin: thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp. Nguồn thông tin thứ cấp là những thông tin đã có và trước đó được thu thập để dùng cho mục đích khác. Còn nguồn thông tin sơ cấp là những thông tin được thu thập lần đầu cho một mục tiêu cụ thể. 19/31
  12. Có ba phương pháp để thu thập những thông tin sơ cấp, cụ thể là: quan sát, thực nghiệm và thăm dò dư luận. Và cũng có ba phương thức liên hệ với khách hàng để thu thập thông tin sơ cấp: qua điện thoại, bưu điện hay phỏng vấn trực tiếp. Phỏng vấn qua điện thoại là phương pháp mà các nhà nghiên cứu thị trường bảo hiểm có thể thu thập thông tin nhanh nhất. Song nhược điểm của nó là chỉ có thể phỏng vấn với người có điện thoại, cuộc nói chuyện phải ngắn gọn, không mang tính quá riêng tư. Gửi phiếu điều tra qua bưu điện có thể là phương tiện tốt nhất để tiếp xúc với những người không muốn phỏng vấn trực tiếp. Nhưng phương pháp này có tỷ lệ gửi trả thấp, thời gian gửi trả lại lâu. Phỏng vấn trực tiếp là phương thức vạn năng nhất. Các nhà nghiên cứu thị trường bảo hiểm không những có thể đưa ra nhiều câu hỏi mà còn có thể bổ sung kết quả nói chuyện bằng những quan sát trực tiếp của mình. Phỏng vấn trực tiếp có thể được thực hiện với từng cá nhân hoặc tập thể với sự trợ giúp của các phương tiện ghi âm hoặc ghi hình. Đây là phương thức đòi hỏi chi phí bỏ ra khá lớn và những người thực hiện phải giỏi về chuyên môn, có hiểu biết về tâm lý và xã hội. 20/31